TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 03/2023/HS-PT NGÀY 22/03/2023 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 11/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Long Văn H do có kháng cáo của các bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2022/HS-ST ngày 21-12-2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
- Bị cáo bị kháng cáo: Long Văn H, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1988 tại huyện B, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Long Văn A và bà Lý Thị Kh; vợ Hoàng Thị K và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự, xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Bị hại có kháng cáo:
1. Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1986; có mặt.
2. Bà Vi Thị Th, sinh năm 1963; có mặt.
Đều cùng địa chỉ: Thôn K, xã L, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại anh Hoàng Văn D: Ông Hoàng Văn L, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm T tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại bà Vi Thị Th: Ông Bế Quang H, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm T tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại Hoàng Văn D, Vi Thị Th: Ông Lương Văn T, Luật sư của Văn phòng Luật sư L thuộc Đoàn L tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Chị Hoàng Thị Kh, sinh năm 1989; có mặt.
2. Bà Lý Thị Kh, sinh năm 1961; vắng mặt.
Đều cùng địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ ngày 16/12/2021 đến ngày 01/01/2022, tại khu vực đồi L thuộc Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Long Văn H đã có hành vi chặt, đốt tổng số 63 cây hồi của gia đình Hoàng Văn D và gia đình Vi Thị Th trên tổng diện tích 3.162,49 m (0,3162 ha), trong đó: Diện tích 2041,02m2 có 39 cây hồi bị hủy hoại của bà Vi Thị Th theo bản đồ hiện trạng rừng năm 2021 xã B, huyện B thuộc lô 99, thửa 458, khoảng 19, tiểu khu 178 là đất trồng rừng thuộc quản lý của gia đình ông Long Văn A (bố ruột bị cáo Long Văn H) và diện tích đất rừng 1121,47m2 có 24 cây hồi bị hủy hoại của ông Hoàng Văn D, theo bản đồ hiện trạng rừng năm 2021 xã B thuộc lô 105, thửa 486, khoảng 19, tiểu khu 178 thuộc quản lý của hộ gia đình ông Long Văn T, ngoài ra bị cáo Long Văn H cũng chặt một số cây tự nhiên, trong đó có 03 cây trám đen và 01 cây lát hoa của Hoàng Văn D.
Tại Kết luận giám định tư pháp ngày 12/10/2022 của Giám định viên tư pháp theo vụ việc về lĩnh vực lâm nghiệp thuộc Sở N tỉnh Lạng Sơn, kết luận:
+ Xác định loại rừng diện tích 3.162,49 m (0,3162 ha) qua đối chiếu với bản đồ điều chỉnh quy hoạch lại 3 loại rừng xã B, huyện B theo Quyết định số 687/QĐ-UBND ngày 24/4/2020 của UBND tỉnh Lạng Sơn thì diện tích trên tại khoảnh 2, tiểu khu 17 thuộc quy hoạch rừng sản xuất.
Căn cứ Điều 4 Nghị định số 156/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp và kết quả giám định thực tế thì diện tích 3.162,49 m (0,3162 ha) có cây gỗ bị chặt đốt thuộc trạng thái “rừng sản xuất”.
Căn cứ theo điểm b, mục I, Điều 11 (Trồng mới rừng sản xuất) quy định tại Thông tư số 29/2018/TT-BNNPTNT, ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quy định về các biện pháp lâm sinh thì diện tích 3.162,49m2 “thuộc đối tượng trồng mới rừng sản xuất”.
Căn cứ theo Phụ lục I, Phân chia trạng thái rừng (ban hành kèm theo Thông tư số 33/2018/TT-BNNPTNT ngày 16/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quy định về điều tra, kiểm kê và theo dõi diễn biến rừng thì diện tích có cây gỗ tự nhiên bị chặt đốt là trạng thái “rừng chưa có trữ lượng M < 10, ký hiệu RLP”, thuộc rừng tự nhiên núi đất.
Tại Kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐĐGTS ngày 07/07/2022 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại đối với 63 cây hồi có đường kính gốc từ 02 cm đến 17 cm bị cưa, chặt là 43.850.000 đồng (bốn mươi ba triệu, tám trăm năm mươi nghìn đồng chẵn) Tại Kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 14/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là 03 cây trám đen và 01 cây lát hoa có đường kính gốc từ 11 cm đến 17 cm bị cưa, chặt là 1.829.000 đồng (một triệu tám trăm hai mươi chín nghìn đồng chẵn) Với hành vi nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2022/HS-ST ngày 21-12-2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định:
Căn cứ khoản khoản 1 Điều 178; Điều 50; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Long Văn H 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội Hủy hoại tài sản. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, các bị hại Vi Thị Th, Hoàng Văn D đều bị kháng cáo tăng mức hình phạt đối với bị cáo Long Văn H, đề nghị xử phạt bị cáo Long Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chị Hoàng Thị Kh về tội Hủy hoại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị hại Vi Thị Th, Hoàng Văn D giữ nguyên nội dung đã kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Bản án sơ thẩm kết án bị cáo về tội Hủy hoại tài sản là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và ấn định mức hình phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Long Văn H nộp 01 biên lai thể hiện bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng vào Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Gia. Về nội dung kháng các bị hại Vi Thị Th, Hoàng Văn D giữ nguyên nội dung kháng cáo về yêu cầu tăng mức hình phạt là không có cơ sở, đối với yêu cầu khởi tố thêm chị Hoàng Thị Kh do bỏ lọt tội phạm là không có căn cứ, tài liệu có trong hồ sơ xác định ngày 16-12-2021 chị Hoàng Thị Kh ở nhà đưa con đi học, khi bị cáo Long Văn H đi phát rừng không nói gì cho chị biết. Sau khi sự việc xảy ra đến ngày 30-12-2022 thì bị cáo Long Văn H mới bảo chị đi hộ dọn dẹp rừng thì có chính quyền địa phương đến lập biên bản hòa giải, lúc đó chị Hoàng Thị Kh mới biết chồng mình là Long Văn H chặt và đốt một số cây hồi của gia đình bà Vi Thị Th, anh Hoàng Văn D. Do đó, không có căn cứ xác định chị Hoàng Thị Kh là đồng phạm với chồng trong việc hủy hoại tài sản. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của các bị hại, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị hại có ý kiến: Bị cáo Long Văn H đã thực hiện hành vi ngả cây, cắt khúc, chặt cành của 112 cây gỗ các loại; ngả cây, cắt khúc, chặt cành để đốt 63 cây hồi trong vòng 03 ngày khác nhau. Như vậy, bị cáo Long Văn H đã phạm tội 2 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS đối với bị cáo Long Văn H và căn cứ khoản 5 Điều 3 về những trường hợp không cho hưởng án treo của Nghị quyết số 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo thì bị cáo Long Văn H không đủ điều kiện để được hưởng án treo, vì đã phạm tội nhiều lần. Đối với Hoàng Thị Kh là vợ của bị cáo Long Văn H, nếu có căn cứ vi phạm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và có ý kiến để các cơ quan chức năng có thẩm quyền của huyện B xử lý vi phạm hành chính theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung của Bản án sơ thẩm. Do đó, có căn cứ để xác định: Từ ngày 16/12/2021 đến ngày 01/01/2022, tại khu vực đồi L thuộc Thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Long Văn H đã có hành vi chặt, đốt tổng số 63 cây hồi của gia đình Hoàng Văn D và gia đình Vi Thị Th. Bị cáo Long Văn H cũng chặt một số cây tự nhiên, trong đó có 03 cây trám đen và 01 cây lát hoa của Hoàng Văn D. Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là 45.679.000đ (bốn mươi lăm triệu sáu trăm bảy mươi chín nghìn đồng). Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Long Văn H về tội Hủy hoại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, không oan.
[2] Xét kháng cáo của các bị hại đề nghị tăng mức hình phạt thấy rằng: Toà cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 mặc khác bị cáo Long Văn H có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, bản thân bị cáo có trình độ văn hóa thấp, hành vi của bị cáo xuất phát từ mong muốn trồng cây, làm kinh tế trên diện tích đất của gia đình mà không suy nghĩ đến hậu quả gây ra thiệt hại về tài sản đối với người khác. Mặc dù hoàn cảnh gia đình bị cáo hết sức khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo của xã, bị cáo là lao động chính trong gia đình, hiện đang chăm sóc bố ruột bị bệnh thần kinh, mẹ bị cáo tuổi đã cao, các con còn nhỏ nhưng sau khi sự việc xảy ra bị cáo cảm thấy rất ăn năn, hối hận nên ngoài số tiền cấp sơ thẩm buộc bị cáo phải bồi thường cho các bị hại là 45.679.000 đồng, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thêm 17.321.000 đồng, tại cấp sơ thẩm bị cáo đã tích cực bồi thường một phần hậu quả cho các bị hại là 23.000.000 đồng và tại phiên toà phúc thẩm bị cáo đã tiếp tục bồi thường thêm 10.000.000 đồng. Xét thấy, bị cáo Long Văn H có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Mặt khác, ngoài việc phạm tội này ra bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, trong thời gian tại ngoại vừa qua không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật; có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và thể hiện đường lối xét xử khoan hồng với người phạm tội biết ăn năn hối cải. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm tù, cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Tại cấp phúc thẩm, các bị hại kháng cáo nhưng không xuất trình được thêm tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị hại về việc tăng hình phạt và chuyển hình phạt sang tù giam.
[3] Xét kháng cáo yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Hoàng Thị Kh về tội Hủy hoại tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015 thấy rằng: Hành vi hủy hoại là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản của người khác phải có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên thì người có hành vi hủy hoại mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Xét thấy, trong vụ án này ngày 16-12-2021, Long Văn H đã chặt 06 cây hồi và đốt 57 cây hồi bị cháy, đến ngày 30-12-2021 Hoàng Thị Kh chỉ dọn dẹp, phát rừng cây bụi tại diện tích rừng mà bị cáo Long Văn H đã đốt hôm trước. Như vậy, hành vi của Hoàng Thị Kh chưa thỏa mãn về mặt hậu quả, cụ thể là chưa gây ra hậu quả làm mất, giảm giá trị sử dụng của tài sản, ở đây là cây hồi của các bị hại nên không cấu thành tội Hủy hoại tại sản theo Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015. Mặt khác, Hoàng Thị Kh không biết và không được tham gia cùng Long Văn H chặt, cưa, đốt những cây hồi của các bị hại vào ngày 16-12-2021 nên Hoàng Thị Kh không phải là đồng phạm trong vụ án.
[4] Như đã phân tích tại mục [3] có cơ sở để khẳng định ngày 16-12-2021, bị cáo Long Văn H đã hoàn thành hành vi phạm tội Hủy hoại tài sản, thiệt hại 06 cây hồi bị chặt và 57 cây hồi bị đốt cháy. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm đã xác định được trong các ngày 30-12-2022 và 01-01-2023 bị cáo và chị Hoàng Thị Kh chỉ phát quang, dọn dẹp lại diện tích rừng đã đốt ngày 16-12- 2022 mà không khai phá, hủy hoại thêm tài sản nào khác. Do đó, không có đủ cơ sở để áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đề nghị.
[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đề nghị nào phù hợp với nhận định nêu trên thì được chấp nhận, đề nghị nào không phù hợp với nhận định nêu trên thì không được chấp nhận.
[6] Về án phí: Bị hại Hoàng Văn D và Vi Thị Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của các bị hại Hoàng Văn D, Vi Thị Th về việc tăng hình phạt đối với bị cáo Long Văn H; giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2021/HS-ST ngày 21-12-2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về phần hình phạt tù đối với bị cáo Long Văn H, cụ thể: Căn cứ khoản 1 Điều 178; Điều 50; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Long Văn H Xử phạt bị cáo Long Văn H 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm.
Thời gian chấp hành tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn và gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68 và khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
2. Ghi nhận bị cáo Long Văn H đã bồi thường tiếp số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) cho bị hại Vi Thị Th, Hoàng Văn D tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0005883 ngày 20-3-2023 của Chi cục T huyện B, tỉnh Lạng Sơn.
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 21, Điều 22 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị hại Hoàng Văn D và Vi Thị Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội hủy hoại tài sản số 03/2023/HS-PT
Số hiệu: | 03/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về