Bản án về tội giết người số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại Phòng xét xử số 02, Tòa án nhân dân tỉnh N xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2022 (quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/HSST-QĐ ngày 15/12/2022; thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số 142/TB-TA ngày 28/12/2022) đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN L, (tên gọi khác: Cu Cậu) sinh năm: 1994, tại tỉnh N. Giới tính: Nam;

Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện NH, tỉnh N;

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

Tại Bản án số 76/2014/HS-ST ngày 28/7/2014 của Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 05 năm tù, về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/12/2017. Đã xóa án tích.

Tạm giữ: 17/6/2022; Tạm giam: ngày 20/6/2022.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N.

Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Hùng Vượng, thuộc Văn phòng Luật sư Hồ Mai Huy, Đoàn Luật sư tỉnh N.

Địa chỉ: Số 5/8 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường T, thành phố P, tỉnh N.

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Lê Minh T, sinh năm 1999 (đã chết);

- Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Lê Thị Kim S, sinh năm 1974.

Là mẹ ruột của Bị hại.

Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện NH, tỉnh N.

Có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Quốc Th, sinh năm: 2005; Có mặt tại phiên tòa.

Người giám hộ: Ông Nguyễn Văn Ba – sinh năm: 1973; Cha ruột.

Vắng mặt tại phiên tòa.

Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện NH, tỉnh N.

2. Anh Hồ Văn Quý, sinh năm: 1997;

Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện NH, tỉnh N.

Có mặt tại phiên tòa.

3. Anh Từ Duy Hoàng C, sinh năm: 2005;

Người giám hộ: Ông Từ Văn T, sinh năm: 1976; Cha ruột.

Nơi cư trú: Thôn A 1, xã X, huyện NH, tỉnh N. Đều có mặt tại phiên tòa.

4. Anh Trần Ngọc H, sinh năm: 2005;

Người giám hộ: Bà Lê Thị Kim N, sinh năm 1993; Mẹ ruột Nơi cư trú: Thôn A 1, xã X, huyện NH, tỉnh N. Đều có mặt tại phiên tòa.

5. Anh Nguyễn Văn Tân, sinh năm: 2006.

Người giám hộ: Ông Nguyễn Văn T – sinh năm: 1977; Cha ruột.

Nơi cư trú: Thôn An Xuân 3, xã Xuân Hải, huyện H, tỉnh N.

Đều có mặt tại phiên tòa.

6. Anh Trần Hoàng H, sinh năm 2005;

Người giám hộ: Ông Trần Minh Tr, sinh năm: 1979; Cha ruột. Nơi cư trú: Thôn A, xã X, huyện NH, tỉnh N.

Đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h ngày 11/6/2022, anh Lê Minh T đang ngồi nhậu cùng với một số người người bạn tại khu vực Nhà máy nước tăng áp thuộc Thôn A, xã X, huyện NH, tỉnh N thì Nguyễn Văn L đi ngang qua nên đi vào nhậu chung.

Trong lúc nhậu, giữa Nguyễn Quốc Th và Lê Minh T xảy ra cãi nhau. L cùng một số người can ngăn nhưng T1 không nghe mà quay sang đòi đánh L. Bực tức, L lấy một chai bia Miền Trung, cầm bằng tay phải đánh mạnh một cái hướng từ trên xuống, trúng vào vùng đầu của T1, chai bia bị vỡ nát. Sau khi được can ngăn cả nhóm không đánh nữa, L cùng với Th đi về nhà mình tại thôn An Hòa, xã Xuân Hải. Khoảng 15 phút sau, L đi bộ quay lại xuống nhà máy nước thấy một số người vẫn còn ở đó, khi đó T1 đang bị nôn ói và được bạn chở đi cấp cứu.

Cho rằng bạn chở T1 đi về nhà nên L lấy xe mô tô của T1 đi về nhà của T1 và gặp bà Lê Thị Kim S. L hỏi T1 về nhà chưa thì bà S cho biết T1 chưa về nhà. L nói cho bà S biết việc gây ra thương tích cho T1 và T1 đang đi chơi lát sẽ về. L để lại xe mô tô rồi đi về nhà.

Sáng ngày 12/6/2022 bà S báo cho L biết T1 bị chấn thương sọ não đang nằm cấp cứu điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh N. Đến trưa cùng ngày, L biết tin T1 bị chấn thương sọ não nặng tiên lượng tử vong nên đã bỏ trốn vào Đồng Nai. Đến ngày 14/6/2022 anh T1 tử vong.

Ngày 16/6/2022, L đến Công an xã Xuân Hải đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường xảy ra vụ án là khuôn viên phía trước Nhà máy nước tăng áp An Hòa - Ba Tháp thuộc Thôn A, xã X, huyện NH. Phía trước nhà máy có khuôn viên được lát gạch, vỉa hè bằng phẳng được chia thành hai khu vực, giữa hai khuôn viên có đường vào bên trong nhà máy được trải bê tông, phía trước nhà máy giáp với tỉnh lộ 705, tỉnh lộ rộng 07m được trải bê tông nhựa đen.

Vị trí số 1: Vị trí xảy ra vụ việc được anh Nguyễn Quốc Th xác định. Vị trí số 2: vùng mảnh vỡ thủy tinh màu nâu KT (0,5 x 0,2) m. Vị trí số 3: trong hố cây bông là vùng mảnh vỡ thủy tinh màu nâu dạng chai bia bị bể vỡ thành nhiều mảnh KT (0,5 x 0,5) m. Vị trí số 4: vùng chất màu nâu dạng nhỏ giọt không liên tục kích thước (1,5 x 0,7) m.

Kết quả khám nghiệm tử thi:

Giải phẩu vùng đầu phát hiện nhiều dịch ở tổ chức dưới da đầu, tụ máu tổ chức dưới da đầu tập trung nhiều ở vùng tương ứng với vết thương bên ngoài, tụ máu tương ứng khớp liên khớp sọ chẩm – đỉnh bên phải. Hộp sọ bên ngoài không phát hiện rạn nứt. Nhiều máu tụ chảy ra theo đường cưa bán cầu phải, tụ máu ngoài màng cứng và dưới màng cứng, tập trung nhiều ở bán cầu phải, tụ máu màng mềm, phù não, ống tủy sống chứa nhiều dịch màu đỏ, sung huyết màng mềm tiểu não, tụ máu ngoài màng cứng vùng xương đá tai phải, tụ máu hố tiểu não. Kiểm tra xương hộp sọ bên trong không phát hiện tổn thương.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 77/TT, ngày 13/7/2022 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y tỉnh N kết luận: Nguyên nhân chết của của Lê Minh T: “Chết do tụ máu ngoài màng cứng, dưới màng cứng, phù não, xuất huyết tổ chức não nặng cấp cứu điều trị không phục hồi’’. Cơ chế hình thành vết thương: Do vật tày tác động mạnh vào vùng đỉnh phải phía chẩm tạo nên các tổn thương nội sọ nặng.

Cơ quan điều tra đã thu giữ một số mảnh, vỡ chai thủy tinh, trong đó có chai thủy tinh còn nguyên tem và nắp chai.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Lê Thị Kim S đại diện hợp pháp gia đình bị hại yêu cầu Nguyễn Văn L phải bồi thường các khoản chi phí cấp cứu và điều trị thương tích, mai táng, tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 100.000.000 đồng. Nguyễn Văn L đã bồi thường 13.500.000đồng. Số tiền còn lại bị cáo Nguyễn Văn L đồng ý sẽ tiếp tục bồi thường.

* Tại Cáo trạng số 20/QĐ-VKS-P2 ngày 31/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N truy tố Nguyễn Văn L về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự (Viết tắt là BLHS).

- Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội giống nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N đã truy tố.

Đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh T đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự: ngoài số tiền 86.500.000đ mà hai bên thỏa thuận bồi thường trong quá trình điều tra, bà S yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 200.000.000đ là tiền cấp dưỡng cho bà và em của bị hại, tiền tổn thất tinh thần.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N phát biểu quan điểm luận tội và tranh luận:

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ và đúng pháp luật.

Bị cáo biết hành vi của mình là nguy hiểm cho tính mạng của người khác nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo có nhân thân xấu, xuất phát từ mâu thuẫn trong lúc ăn nhậu, bị cáo dùng chai bia đánh mạnh vào đầu của Lê Minh T gây ra cái chết cho T1.

Bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội bồi thường thiệt hại; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi gây án đã ra đầu thú, quy định tại điểm b, s, khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Giết người”. Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 15 đến 16 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 590 BLDS đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc bị cáo Nguyễn Văn L tiếp tục bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh T số tiền: 86.500.000 đồng và các khoản khác theo quy định pháp luật.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 của BLTTHS, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: một số mảnh vỡ chai thủy tinh đã được niêm phong.

- Người bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến, tranh luận:

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS là có căn cứ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mang tính chất côn đồ nên phải xử lý nghiêm trước pháp luật.

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lo chi phí điều trị cho bị hại, sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Bị cáo đồng ý bồi thường 86.500.000 cho gia đình bị hại. Đối với khoản tiền 200 triệu đồng gia đình bị hại có yêu cầu bị cáo bồi thường thêm, bị cáo không đồng ý nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị hại cũng có lỗi. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS, Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.

- Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo xin lỗi gia đình bị hại, gia đình bị cáo có khó khăn nên xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: vào đêm ngày 11/6/2022, xuất phát từ việc cãi nhau trong lúc ăn nhậu, Nguyễn Văn L đã dùng chai bia Miền Trung bằng thủy tinh đánh mạnh một cái hướng từ trên xuống trúng vào vùng đầu của anh Lê Minh T làm cho anh T1 bị tụ máu ngoài màng cứng, dưới màng cứng, phù não, xuất huyết tổ chức não nặng cấp cứu điều trị không phục hồi. Ngày 14/6/2022 anh T1 tử vong.

[2.1] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn L là phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y và các tài liệu, chứng cứ thu thập tại hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong lúc ăn nhậu, bị cáo dùng chai bia là hung khí nguy hiểm, đánh mạnh vào vùng đầu của anh Lê Minh T. Anh T1 tử vong là hậu quả do hành vi trái pháp luật của bị cáo gây ra.

[2.3] Theo Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” trong tội “Giết người” có đồng phạm được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Trường hợp này bị cáo phạm tội “Có tính chất côn đồ”.

[2.4] Việc Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh N truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Giết người” với tình tiết định khung là “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo phải đánh giá là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.

Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt tù về hành vi “Cướp tài sản” nhưng không tự sửa đổi mình mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, với tính chất đặc biệt nghiêm trọng nên cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người tốt có ích cho xã hội, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: do đã áp dụng tình tiết “Có tính chất côn đồ” là tình tiết định khung nên không áp dụng là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo nữa.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường một phần về chi phí điều trị thương tích cho bị hại; sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử có cân nhắc giảm nhẹ cho bị cáo về phần hình phạt .

[6] Về trách nhiệm dân sự: anh Lê Minh T tử vong là hậu quả do hành vi trái pháp luật của bị cáo Nguyễn Văn L gây ra nên bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại chi phí điều trị, cấp cứu, chi phí mai táng, tổn thất tinh thần cho đại diện hợp pháp của bị hại.

[6.1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, giữa bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại về dân sự, gồm có: chi phí mai táng 40.000.000đ, chi phí điều trị 30.000.000đ, tổn thất tinh thần: 30.000.000đ, tổng cộng là 100 triệu đồng, bị cáo đã bồi thường được 13.500.000đ và đồng ý bồi thường số tiền còn lại là 86.500.000đ. Đây là sự tự nguyện thỏa thuận, không trái với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận này.

[6.2] Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh T yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 200.000.000đ tiền chi chí cấp dưỡng nuôi em gái và mẹ của bị hại; cùng chi phí tổn thất tinh thần. Tuy nhiên, không cung cấp tài liệu nào khác chứng minh cho yêu cầu bổ sung này.

Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận tính lại về tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại theo quy định của tại Điều 591 Bộ luật dân sự (viết tắt BLDS) với mức: 50 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ/ tháng = 74.500.000đ, trừ 30.000.000đ đã thỏa thuận bồi thường, buộc bị cáo phải bồi thường thêm là 44.500.000đ.

Tổng cộng ([6.1] + [6.2]): buộc bị cáo Nguyễn Văn L có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm cho bà Lê Thị Kim S là 131.000.000đ.

[6.3] Về yêu cầu cấp dưỡng đối với mẹ và em ruột của bị hại Lê Minh T, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này do: mẹ ruột bị hại (bà Lê Thị Kim S), sinh năm 1974, đang ở độ tuổi lao động và em ruột không phải là đối tượng thuộc hàng thừa kế thứ nhất mà bị hại phải có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu thập được một số mảnh vỡ chai thủy tinh. Đây là các mảnh vỡ của chai bia Miền Trung mà bị cáo dùng làm công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, cho bị cáo về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo về đề nghị xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận; Không chấp nhận đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[9] Về án phí: bị cáo Nguyễn Văn L có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Về án phí dân sơ thẩm: do đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại dân sự trước khi mở phiên tòa nên bị cáo không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm, chỉ buộc nộp án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với số tiền bồi thường thiệt hại phát sinh tại phiên tòa (44.500.000đ x 5% = 2.225.000đ) theo quy định tại điểm a, c, f khoản 1 Điều 23, Điều 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L (tên gọi khác: Cu Cậu) phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn L (tên gọi khác: Cu Cậu) 16 (Mười sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: ngày 17/6/2022.

- Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: một số mảnh vỡ chai thủy tinh. Được đựng trong 01 hộp giấy đã niêm phong. Bên ngoài hộp giấy có chữ ký của Trần Xuân Hoàng, Lê Văn Linh và Điều tra viên Nguyễn Công Ngọc và dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh N.

Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh N theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/11/2022.

* Về trách nhiệm dân sự: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46, Điều 48 BLHS;

các Điều 584, 585, 586, 589, Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận về bồi thường thiệt hại.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn L có nghĩa vụ tiếp tục bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại Lê Minh T (bà Lê Thị Kim S) số tiền 131.000.000đ (Một trăm ba mươi mốt triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Người được thi hành án và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 2.225.000đ (Hai triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 12 tháng 01 năm 2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về