TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 261/2021/HS-ST NGÀY 15/10/2021 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 15 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 218/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 303/2021/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 32/2021/HSST-QĐ ngày 01/10/2021 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Anh D1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 01/01/19xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú (ĐKHKTT): Thôn S, xã Đ, thị xã T, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Sinh V2; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Là Đảng V2 Đảng Cộng sản Việt Nam (đã có quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng); Con ông: Nguyễn Trọng K2, sinh năm: 19xx và bà Nguyễn Thị C3, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
2. H1 Đạo L1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 16/3/20xx, tại thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Thôn L7, xã S4, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ 3, khu 6A, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Sinh V2; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông H1 Đạo H2, sinh năm: 19xx và bà Nguyễn Thị T4, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
3. Nguyễn Thành V1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 16/9/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Khu L4, phường C7, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ x, khu 7B, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L3, sinh năm: 19xx và bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
4. Đỗ Thành C1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 27/10/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ x, khu xx, phường M1, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ x, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Xuân T5 (đã chết) và bà Hà Thị H3, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
5. Nguyễn Công V2; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: xx/x/19xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Thôn S3, xã A1, thị xã Y1, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ x, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C4, sinh năm: 19xx và bà Vũ Thị V3, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
6. Nguyễn Vũ G1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 12/4/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ xx, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tiến X1, sinh năm: 19xx và bà Vũ Thị C5, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
7. Vũ Thanh T1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 09/11/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ xx, khu 4, phường Đ1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn T6, sinh năm: 19xx và bà Nguyễn Thị Hồng L4, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/9/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 25/8/2020 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương; bị tạm giam tại Trại tạm giam Công An tỉnh Quảng Ninh - Có mặt.
8. Lư Tiến H1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 30/4/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ x, khu x, phường K1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Sinh V2; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lư Nhật H4, sinh năm: 19xx và bà Lê Thị B, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
9. Vũ Tiến N1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 16/10/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Khu B1, phường Q1, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ x, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Sinh V2; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam: Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Tiến V1, sinh năm: 1973 và bà Lương Thị C2, sinh năm: 197xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 29/3/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
10. H1 N1 L2; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: xx/xx/20xx, tại T15, tỉnh H16; Nơi ĐKHKTT: Thôn N8, xã D1, H1ện T17, tỉnh H16; Tạm trú: Tổ 20B, khu 2A, phường X1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông H1 Kim K1, sinh năm: 19xx và bà Đặng Hồng S1, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 05/6/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
11. Nguyễn Văn Đ1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 03/12/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Thôn x, xã H18, H1ện G1, tỉnh D2; Tạm trú: Tổ 5, khu 12, phường M1, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Q1, sinh năm: 19xx và bà Nguyễn Thị T3, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 05/6/2021, hiện tại ngoại tại nơi cư trú - Có mặt.
12. Vũ Văn A1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 03/9/20xx, tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Tổ x, khu xx, phường H19, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ 4, khu 6B, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Sinh V2; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12/; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn D2, sinh năm: 19xx; và bà Đoàn Thị Minh Y, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị can bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 05/6/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
13. Nguyễn Thị T2; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 11/02/19xx, tại thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ĐKHKTT: Thôn S5, xã Đ5, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh; Tạm trú: Tổ x, khuxx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh;
Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Minh Khương (đã chết) và bà Phạm Thị P, sinh năm: 19xx; Chồng, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 05/6/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
14. Quàng Văn M1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 26/11/20xx, tại tỉnh L6; Nơi ĐKHKTT: Bàn B2, xã B3, Huyện L5, tỉnh L6; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Quàng Văn N2, sinh năm: 19xx và bà Quàng Thị K, sinh năm: 19xx; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 21/6/2021, hiện tại ngoại nơi cư trú - Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị cáo H1 N1 L2:
Bà Đặng Hồng S1, sinh năm 19xx (mẹ đẻ của bị cáo L2); Nơi ĐK HKTT: Thôn N8, xã D1, H1ện T17, tỉnh H16; Tạm trú: Tổ 20B, khu 2A, phường X1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh - Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo H1 N1 L2:
Bà D1 Thị H5 - Trợ giúp V2 pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Ninh - Có mặt.
Bị hại:
- H1 Đạo L1, sinh ngày 16/3/20xx; Nơi ĐKHKTT: Thôn L7, xã S4, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ x, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh - Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Đỗ Thành C1, sinh ngày 27/10/20xx; Nơi ĐKHKTT: Tổ x, khu xx, phường M1, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh - Có mặt.
- Lê T5A2, sinh năm 20xx; Nơi ĐKHKTT: Thôn Quảng G, xã Đại Hợp, H1ện Tứ Kỳ, tỉnh D2 - Vắng mặt.
- Chu H1 N3, sinh ngày 19/3/2000; Nơi ĐKHKTT: Tổ 77, khu 6B, phường Cẩm Phú, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh - Vắng mặt.
Người làm chứng:
- Chị Nguyễn H1 H6 - Sinh ngày 10/8/2001; Nơi cư trú: Tổ 2, khu 1B, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
- Chị Nguyễn Thị Thu G - Sinh ngày 21/12/2000; Nơi cư trú: Khu B1, phường Q1, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Trần H1 H1 - Sinh ngày 09/6/2000; Nơi cư trú: Tổ 5, khu N8, phường K8, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Nguyễn Văn H8 - Sinh ngày 27/12/2001; Nơi cư trú: Tổ x, khu T20, phường M3, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh.
- Chị Hà Bích N4 - Sinh ngày 13/02/2001; Nơi cư trú: Tổ x, khu x, phường G9, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Phạm Trung K4 - Sinh năm 19xx; Nơi cư trú: Tổ P5, thị trấn B7, H1ện H20, thành phố Hải Phòng.
- Anh Nguyễn Minh T7 - Sinh năm 19xx; Nơi cư trú: Thôn 8, xã Liên Hòa, thị xã Y1, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Đặng Văn H9 - Sinh ngày 29/01/20xx; Nơi cư trú: Thôn H21, xã S6, H1ện C6, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Lê Tiến Đ - Sinh ngày 20/11/20xx; Nơi cư trú: Thôn L7, xã Q5, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh.
- Chị Phạm Thị P - Sinh năm 19xx; Nơi cư trú: Thôn S5, xã Đ5, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Vũ Phạm N1 L5 - Sinh năm 19xx; Nơi cư trú: Số nhà xx, tổ x, khu x, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Bùi Văn T8 - Sinh ngày 30/01/20xx; Nơi cư trú: Tổ x, khu x, phường K1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
- Chị H1 N1 H10 - Sinh ngày 29/12/20xx; Nơi cư trú: Tổ x, khu x, phường H, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
- Anh Chìu Văn Đ - Sinh ngày 20/10/20xx; Nơi cư trú: Thôn H1, xã S5, H1ện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh.
- Chị Vũ Kim L6 - Sinh năm 19xx; Nơi ĐKHKTT: Tổ xx, khu x, phường Đ1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ xx, khu xx, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
- Chị Nguyễn Thị Thu H11 - Sinh năm 19xx; Nơi ĐKHKTT: Tổ x, khu x, phường K1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ 1A, khu 6A, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh.
(Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ 20 phút, ngày 20/12/2020, tại khu vực đoạn đường Tôn Thất T1 thuộc tổ xx , khu xx, phường H12, thành phố H13,tỉnh Quảng Ninh, là khu vực đông dân cư, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, nhóm H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ Thanh T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quàng Văn M1 và nhóm Nguyễn Anh D1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 đã có hành vi sử dụng hung khí và tay chân đánh nhau gây náo loạn khu dân cư, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội nơi công cộng. Trong đó: Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, H1 N1 L2, Quàng Văn M1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và Nguyễn Anh D1 sử dụng gậy 3 khúc, muôi kim loại, cán chổi bằng gỗ, các V2 đá, dao, điếu cày, ghế nhựa; H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1 và Nguyễn Văn Đ1 sử dụng tay chân. Nguyễn Anh D1 đã có hành vi dùng dao đâm, chém H1 Đạo L1 gây thương tích, tổn hại 17% sức khỏe; dùng dao đâm, chém Đỗ Thành C1 gây thương tích, tổn hại 10% sức khỏe.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc dép; 03 đoạn gậy gỗ; 01 phần thân chổi;
01 chiếc nõ điếu cày bằng kim loại; 01 chiếc điếu cày bằng tre; 03 con dao kim loại đầu lưỡi vuông; 01 con dao bầu bằng kim loại; 01 xe mô tô Honda Wave Alpha, biển kiểm soát (BKS) xxU1-464.xx; 01 xe mô tô Honda Wave Alpha, BKS xxZ1-407.xx; 01 xe mô tô Yamaha Sirius, BKS xxG1-015.xx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha BKS xxE1-257.xx; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS xxU1-146.xx; 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng, 01 micro sim; 01điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu đen, 01 sim điện thoại di động; 01 điện thoại Samsung Galaxy A11 màu trắng, 01 sim; 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đỏ, 01 sim điện thoại di động; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S20 màu đen, 01 sim điện thoại di động; 01 điện thoại di động Iphone XS Max màu trắng, 01 sim điện thoại di động; 01 điện thoại di động Xiaomi màu xanh, 01 sim điện thoại di động; 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu đen, 01 chiếc Micro sim; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu hồng, 01 chiếc sim điện thoại di động; 01 điện thoại di động Iphone X màu đen, 01 sim điện thoại di động; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu vàng; 01 áo khoác dạng áo gió màu xanh ghi dài tay; 01 áo thu đông màu đen, dài tay, có mũ liền áo; 01 mũ lưỡi chai màu xanh rêu; 01 chiếc mũ bảo hiểm dạng mũ lưỡi chai bị vỡ; 03 đĩa DVD ghi lại sự việc xảy ra vào đêm ngày 20/12/2020. Đối với 01 chiếc gậy rút 3 khúc kim loại, 01 chiếc muôi, 03 V2 gạch đá lát bê tông Cơ quan điều tra không thu giữ được.
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Nơi xảy ra vụ án tại tổ 1A, khu 6A, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh. Vị trí D1 lấy dao xác định tại bàn gạch góc Đông Nam của bếp. Trên mặt đường có đám máu nhỏ giọt trên diện (4,2x2)mét, từ tâm đám máu đến mép đường là 2,3mét. Khám nghiệm hiện trường phát hiện, thu giữ: 01 chiếc dép bàn chân trái màu đen bằng cao su, logo Adidas; 03 đoạn thanh gỗ bị gãy, vết gãy mới, lần lượt có kích thước là 56cm, 55,5cm, 23cm và đều có đường kính 03cm; 01 phần thân chổi rơm, đầu được quấn cao su màu đen; 01 đám máu nhỏ giọt trên diện (2,8x1)mét, tâm đám máu cách mép đường 2,4mét; 01 nõ điếu cày bằng kim loại dài 6,5cm, đường kính rộng nhất 3,5cm; 01 điếu cày bằng tre dài 0,57mét, đường kính 4,5cm, điếu cày có hoa văn, phần đầu điếu bị nứt vỡ tre dài 10cm.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 40/21/TgT ngày 14/01/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ninh, kết luận về thương tích của H1 Đạo L1 như sau:
Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương phần mềm mặt sau vai - cánh tay trái tổn thương như sau: Sẹo vết thương nằm chéo mặt sau vai - cánh tay trái kích thước (18,5 x 0,3)cm (02%); Sẹo dẫn lưu mặt sau vai trái kích thước (0,5 x0,3)cm (01%); Tổn thương không hoàn toàn thần kinh cơ bì cánh tay sau bên trái (13%). Sẹo vết thương phần mềm 1/3 dưới mặt sau đùi phải, kích thước (03x0,2)cm; sẹo dẫn lưu 1/3 dưới mặt sau đùi phải kích thước (0,5x0,3)cm (01% + 01%). Kết luận: Căn cứ vào Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số: 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây lên hiện tại là 17% (mười bảy phần trăm). Áp dụng quy tắc cộng trong Thông tư. Kết luận khác: Vết thương mặt sau vai - cánh tay trái do vật sắc; vết thương đùi phải do vật sắc nhọn 01 lưỡi sắc tác động trực tiếp gây nên, chiều hướng như đã mô tả ở trên.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 84/21/TgT ngày 27/01/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ninh kết luận về thương tích của Đỗ Thành C1 như sau:
Dấu hiệu chính qua giám định: Sẹo vết thương phần mềm nằm dọc vùng má - thái D1 phải, kích thước (8,5x0,2)cm, đồng thời tổn thương tuyến nước bọt mang tai, hiện tại không gây khô miệng; siêu âm nhu mô tuyến nước bọt mang tai phải có ổ giảm âm kích thước khoảng (12,7x7,7)mm. Kết luận: Căn cứ vào Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số: 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây lên hiện tại là 10% (mười phần trăm). Áp dụng quy tắc cộng trong Thông tư. Kết luận khác: Vết thương nêu trên do vật sắc tác động trực tiếp gây nên, hướng từ phải sang trái.
Cơ quan điều tra đã tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể của Nguyễn Anh D1, Lê T5A2, Vũ Văn A1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, kết quả như sau:
Nguyễn Anh D1 có: 01 vết xước, rách da chảy máu, kích thước (1,5 x 0,2)cm tại vị trí dưới móng tay cái của bàn tay phải;
Lê T5A2 có: 01 vết bầm tím không rõ hình, kích thước (2 x 4)cm ở dưới mắt bên trái;
Vũ Văn A1 có: 03 vết trầy xước rỉ máu tại vị trí phía sau mang tai trái gồm 01 vết trầy xước dài 04cm, rộng 01cm, 02 vết trầy xước dài 02cm, rộng 01cm;
01 vết sưng nề phía sau mang tai trái kích thước (1,5 x 2)cm;
Nguyễn Thành V1 có: 01 vết trầy xước da rỉ máu đã đóng vảy, kích thước (08x0,3)cm, vị trí trên ngực phải, điểm thấp nhất cách đầu vú 04cm;
Nguyễn Công V2 có: 01 vết sưng bầm tím tại mép ngoài bàn tay phải, kích thước (04x06)cm.
Cơ quan điều tra đã thu giữ 03 đoạn video clip tại quán “Cháo lòng 68”, “Hồng anh Quán” và quán “HD Gaming”, có ghi hình ảnh 2 nhóm dùng hung khí đuổi đánh nhau làm náo loạn khu dân cư.
Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có lời khai phù hợp về thời gian, địa điểm diễn biến hành vi phạm tội như sau:
Bị cáo Nguyễn Anh D1 khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 20/12/2020, khi bị cáo cùng bạn là Vũ Văn A1, Lê T5A2, Nguyễn Văn H8, Trần H1 H1, Nguyễn Thị Thu G, Nguyễn H1 H6, Hà Bích N4, Nguyễn Minh T7, Phạm Trung K4 đang ở quán “Cháo lòng 68” của chị họ bị cáo là Nguyễn Thị T2 thì nhận được điện thoại của L1 hẹn đến chỗ L1 ở khu vực hồ Cô Tiên nói cH1ện giải quyết mâu thuẫn từ chuyến đi thực tế Sa Pa ngày 19/12/2020 nhưng bị cáo không đi mà hẹn L1 đến quán “Cháo lòng 68” nói chuyện. Khoảng 22 giờ cùng ngày, L1 cùng một số nam thanh niên đi xe mô tô đến quán “Cháo lòng 68”, L1 một mình vào quán gọi bị cáo ra ngoài nhưng bị cáo không ra mà vào trong quán dọn dẹp kê thêm ghế để L1 vào nói cH1ện. Rồi L1 và V1 vào quán, Trang cũng đứng cạnh bị cáo để nghe cuộc nói cH1ện còn các bạn của L1 thì ngồi ở ghế cạnh cửa quán. Khi bị cáo và L1 đang nói chuyện thì T1 ngồi ở bàn bên ngoài nghe thấy nên đã đứng dậy chỉ tay về phía bị cáo chửi bậy, thách thức đánh nhau. Trang cũng chửi, đuổi nhóm L1 ra khỏi quán. Lúc này, tại khu vực quán xảy ra cãi nhau gây ồn ào, xô đẩy nhau hỗn loạn. Bị cáo chạy vào bếp lấy 02 con dao, tay trái cầm con dao mũi vuông, tay phải cầm dao bầu giơ dao về phía nhóm L1 và nói to “thằng nào giỏi thì vào đây” rồi bị cáo chạy ra đến cửa quán, thấy T bị nhóm L1 đánh. Khi Thh bỏ chạy xuống lòng đường thì bị L1, C1, V1, M1 đuổi theo bao vây. Vì vậy, bị cáo cH1ển tay trái cầm 02 con dao, tay phải cầm điếu cày chạy ra vụt nhóm đang đánh Thanh, do hỗn loạn bị cáo không rõ đã vụt trúng ai. Sau đó, nhóm L1 quay lại đánh bị cáo, bị cáo dùng dao chém một nhát vào má phải của C1, có người ôm bị cáo sau lưng nên bị cáo đã cH1ển con dao nhọn sang tay phải dùng dao nhọn đâm vào đùi người ôm bị cáo để người này buông bị cáo ra. Người này thả tay ra, bị cáo quay ra nhìn thì biết đó là L1. Sau đó, L1 đi bộ xuống lòng đường, bị cáo chuyển 02 dao sang 02 tay chạy đến chém 01 nhát trúng vai trái L1 thì L1 bỏ chạy. Trang giằng lấy được 02 con dao trên tay bị cáo mang cất đi. Có 01 nam thanh niên nhặt đá ném bị cáo nhưng không trúng, bị cáo đã nhặt đúng V2 đá đó ném người thanh niên đó cũng không trúng. Sau đó, bị cáo đi vào quán nhưng nhóm của L1 vẫn tiếp tục chửi và thách thức bị cáo nên bị cáo tiếp tục chạy vào bếp lấy 02 con dao chạy ra ngoài thì bị bác Phượng (mẹ của Trang) lấy lại 02 con dao. Quá trình điều tra bị cáo đã xin lỗi và tự nguyện bồi thường cho L1 30 triệu đồng, bồi thường cho C1 15 triệu đồng. D1 và L1 không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.
Bị cáo H1 Đạo L1 và là bị hại khai nhận: Ngày 19/12/2020, khi đi thực tế ở Sa Pa, Lào Cai, bị cáo đã bị Nguyễn Anh D1, Trần H1 H1 và Lê T5A2 đánh do mâu thuẫn khi đi thang máy. Ngày 20/12/2020, bị cáo đã điện thoại nhờ Nguyễn Thành V1 đứng ra dàn hòa với D1, V1 đồng ý và hẹn bị cáo ra quán nước chè ở hồ Cô Tiên. Bị cáo mượn xe mô tô Yamaha Sirius của Anh Chu H1 N3 điều khiển đi thì Vũ Tiến N1 và Lê Tiến Đ đòi đi theo, bị cáo đồng ý. Cả ba đi trên đường thì gặp V1, V2, G, L2, Hà, C1 nên bị cáo và mọi người cùng đi đến quán nước ở hồ Cô Tiên. Tại quán nước, bị cáo gọi điện cho D1 hẹn D1 ra quán nói cH1ện nhưng D1 không đến mà hẹn bị cáo đến quán “Cháo lòng 68”. Nhóm của bị cáo gồm bị cáo, V1, C1, V2, G, H1 N1 L2, Vũ Phạm N1 L5, H1 N1 H10, Đ1, Đông, Hùng, M1, N1, Đạt, H1, Toan, T1 đi 08 xe mô tô đến quán “Cháo lòng 68” thấy D1, H1, A1, T đang ngồi ăn cùng một số bạn nữa. Bị cáo đi vào gọi D1 ra ngoài nhưng D1 không ra mà D1 và Trang chủ quán bảo bị cáo vào trong quán nói chuyện. Vì vậy bị cáo và V1 đã vào quán nói chuyện với D1 có cả Trang ngồi nghe nhưng sau đó 02 bên đã xảy ra cãi nhau. Bị cáo thấy D1 chạy vào trong tìm dao nên bị cáo ra ngoài thì thấy Thanh đứng lên, bị cáo dùng vai đẩy Thanh ra ngoài quán hỏi vì sao hôm ở Sa Pa, Thanh đánh bị cáo thì Thanh chửi và dùng tay đẩy vào người bị cáo. Bị cáo bực tức dùng tay đấm 01 nhát vào mặt Thanh và có 05 người trong nhóm bị cáo lao vào đánh Thanh.
Thanh chạy ra ngoài đường thì nhóm của bị cáo đuổi theo chặn đánh Thanh trên vỉa hè. Bị cáo bị một vật cứng đập vào phía sau đầu quay lại thì thấy 01 chiếc điếu cày rơi dưới đất. D1 đứng gần đó tay cầm dao, xung quanh có V1, C1 và 01 người bạn của bị cáo cầm gậy 3 khúc đánh D1. V1 hô lên “nó có dao kìa” và trong lúc đánh nhau D1 đã cầm dao chém trúng mặt C1, thấy vậy bị cáo lao vào ôm D1 thì bị D1 dùng dao bầu đâm vào đùi bên phải. Bị đau, bị cáo buông tay rồi đi ra ngoài đường. Hai nhóm không đánh nữa mà tiếp tục chửi nhau, D1 cầm dao lao tới chém 01 nhát vào bả vai trái của bị cáo. Từ lúc này bị cáo bị choáng không để ý được mọi người xung quanh như thế nào. Sau đó, bị cáo được mọi người đưa đến Bệnh viện cấp cứu. Hiện bị cáo đã được D1 tự nguyện bồi thường thiệt hại 30 triệu đồng, bị cáo không yêu cầu D1 phải bồi thường thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Anh D1.
Bị cáo Nguyễn Thành V1 khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 20/12/2020, L1 điện thoại kể cH1ện bị D1 đánh ở Sa Pa, Lào Cai và nhờ bị cáo giúp L1 giải quyết mâu thuẫn với D1. Bị cáo đồng ý và rủ C1, V2, G, Hà, L2 ra quán nước chè ở hồ Cô Tiên gặp L1. Trên đường đi, bị cáo và mọi người gặp L1 và hai người bạn của L1 nên nhập nhóm cùng đi đến quán nước chè. Sau khi L1 điện thoại cho D1 thì D1 hẹn đến quán “Cháo lòng 68” nên cả nhóm đi xe mô tô đến điểm hẹn với D1. Tại quán “Cháo lòng 68”, bị cáo cùng L1 vào quán nói cH1ện với D1, có cả chủ quán là Trang nghe cuộc nói cH1ện. Hai bên đang nói chuyện thì có T1 chửi D1, D1 bực tức đi vào bếp tìm dao nên bị cáo và mọi người lùi ra cửa quán thì thấy mọi người quây đánh Thanh. Thanh bỏ chạy được thì mọi người tiếp tục đuổi theo. G rút gậy 3 khúc vụt Thanh, D1 tay cầm dao, tay cầm điếu cày vụt về nhóm bị cáo. Bị cáo giằng điếu cày của D1 nhưng không được và dùng chân đá D1 01 nhát. C1 định lao vào túm áo D1 thị bị D1 khua dao chém trúng má C1. Bị cáo đấm một bạn ở nhóm của D1; L1 lao vào ôm D1 từ phía sau thì bị D1 dùng dao bầu đâm vào đùi khiến L1 buông tay. Trang lao vào dùng chối đánh nhóm L1. Sau đó, bị cáo kéo L1 ra ngoài thì D1 cầm dao chém 01 nhát vào bả vai L1. Khi 02 nhóm tản ra thì bị cáo thấy T1 nhặt gạch ném D1 nhưng không trúng, D1 nhặt lại V2 gạch đó ném về nhóm bị cáo không biết có trúng ai không. Sau đó 02 nhóm chửi nhau một lúc rồi ra về.
Bị cáo Đỗ Thành C1 đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 20/12/2020, sau khi tan làm, bị cáo cùng Nguyễn Công V2, Nguyễn Vũ G1, Vũ Phạm N1 L5, Nguyễn Thành V1, H1 N1 H10 đến quán nước hồ Cô Tiên để gặp L1 xem xích mích giữa L1 với D1 như thế nào. Tại đây, L1 gọi điện nhưng D1 không đến mà hẹn L1 đến quán “Cháo lòng 68”. Sau đó, cả nhóm từ quán nước đi đến chỗ D1. Đến nơi, L1, V1 vào nói cH1ện, bị cáo đứng ngoài, khoảng 3 phút sau thấy tiếng Trang chủ quán chửi còn D1 cầm 02 con dao dơ lên đe dọa. Thanh bị nhóm bị cáo quây đánh và bị cáo cũng đến gần để tham gia đánh Thanh thì bất ngờ bị D1 dùng dao chém trúng 01 nhát vào vùng mặt bên phải. Bị cáo tức giận dùng tay kéo mũ áo của D1 đồng thời dùng chân phải đá mấy cái vào mặt, vào người D1. G dùng gậy 3 khúc đánh nhóm D1. D1 dùng điếu cày đập, dùng dao chém vào nhóm của bị cáo. Trang cầm ghế nhựa, cán chổi đập và dùng đá ném về phía nhóm của bị cáo. D1 dùng dao nhọn đâm vào đùi và dùng dao chém vào vai L1. Sau đó, 02 nhóm dừng đánh nhau, bị cáo được V2 đưa đi Bệnh viện cấp cứu. Đến nay vết thương của bị cáo đã lành, D1 tự nguyện bồi thường cho bị cáo 15 triệu đồng, bị cáo xin miễn trách nhiệm hình sự cho D1 đối với hành vi gây thương tích cho bị cáo và không yêu cầu D1 phải bồi thường thêm cho bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Công V2 có lời khai: Ngày 20/12/2020, V1 đi xe mô tô đón bị cáo đến quán nước chè ở hồ Cô Tiên. Tại đây, bị cáo nghe L1 nói về việc xích mích với D1 và gọi điện cho D1 đến nói cH1ện nhưng D1 không đến thì bị cáo đã cùng các bạn đi xe mô tô đến quán “Cháo lòng 68”. Tại quán “Cháo lòng 68”, L1 với D1 tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, D1 cầm 02 dao đe dọa nhóm của bị cáo. Thanh bị L1 kéo ra ngoài và bị 4-5 người trong nhóm bị cáo đánh. Bị cáo với Hà và L2 không đuổi theo Thanh mà đứng ở cửa quán. Bị cáo thấy A1 cầm ghế nhựa nên đã giật ghế nhựa của A1 thì bị A1 dùng ghế nhựa đập 01 nhất vào thái D1 trái, 01 nhát trúng tay phải. Bực tức vì bị đánh vô cớ nên bị cáo đuổi theo A1 dùng tay phải đấm liên tiếp 4-5 phát trúng vào đầu, mặt A1. Sự việc xảy ra rất ồn ào, lộn xộn, khi bị cáo đang đi bộ ra gần giữa lòng đường thì thấy L1 cũng đi bộ phía trước và bị D1 chạy đến chém 01 nhát vào vai. Bị cáo chạy ra chỗ Hà thì thấy C1 mặt bị chảy máu nên bị cáo đưa C1 đi cấp cứu.
Bị cáo Nguyễn Vũ G1 khai nhận: Ngày 20/12/2020, bị cáo cùng nhóm L1, V1 đến quán “Cháo lòng 68” gặp D1 để giải quyết mâu thuẫn giữa L1 với D1. Tại đây, 02 bên đã xảy ra chửi và đánh nhau. Khi bị cáo thấy Thanh bị đánh bỏ chạy thì L1, C1, V1, M1 đuổi theo, bị cáo cũng lấy gậy rút 3 khúc bằng kim loại đuổi theo định vụt Thanh thì bị H1 can ngăn giằng lấy chiếc gậy. Bị cáo chạy sang vỉa hè nhặt V2 đá vỡ ném vào người Thanh. Sau đó, mọi người dừng lại đứng tản ra đường thì D1 tay phải cầm dao chém vào vai của L1, thấy vậy bị cáo bảo mọi người đưa L1 đi cấp cứu.
Bị cáo Vũ Thanh T1 khai: Khoảng 21 giờ ngày 20/12/2020, bị cáo mượn xe mô tô của mẹ bị cáo để đi chơi, trên đường đi bị cáo nhận được điện thoại của Bùi Văn T8 nói đến quán nước hồ Cô Tiên có 01 nhóm đã đánh bạn của Nguyễn Vũ G1 nhờ đi giải quyết mâu thuẫn, bị cáo đồng ý. Tại quán nước hồ Cô Tiên, bị cáo thấy L1 nói bảo D1 đến nhưng D1 không đến mà hẹn đến quán “Cháo lòng 68” nên nhóm của bị cáo đã đi xe mô tô đến quán “Cháo lòng 68”. Đến nơi, L1, V1 vào trong quán nói chuyện với D1, Trang còn bị cáo đứng trước cửa quán. Bị cáo nghe thấy 02 bên to tiếng nên đã bực tức vào quán chỉ tay về phía D1 chửi, lúc này Trang cũng chửi bị cáo. G ngồi bên cạnh vào can ngăn kéo bị cáo ra cửa. Do lúc này bị cáo mải chửi nhau với Trang nên không để ý mọi việc xung quanh. Khi quay ra phía sau thấy có 04 người trong nhóm L1 đang đánh Thanh, Thanh vùng được chạy thì bị 4-5 người đuổi theo, khi Thanh chạy vòng lại thì bị nhóm L1 quây vào đánh. Bị cáo thấy G cầm gậy kim loại 3 khúc chạy đến đập Thanh nhưng không biết có trúng không, H1 cũng lao vào đánh Thanh, Toàn chỉ đứng dưới lòng đường xem không tham gia. Lúc này, bị cáo thấy D1 chạy từ bên trong quán 02 tay cầm 02 con dao lao ra đánh nhóm L1. A1 cầm ghế nhựa vàng, Trang cầm cán chổi đập các bạn của G. Thấy mọi người bắt đầu tách nhau ra thì bị cáo đi bộ sang bên kia đường nhặt V2 gạch cầm trên tay phải giơ lên chỉ về phía D1 nói “Tao chấp mày cầm dao đấy” rồi ném mảnh V2 gạch về phía D1 nhưng không trúng. Trang chạy lại gần nói “Mày có tin tao đập vỡ đầu mày không” rồi D1 nhặt lại mảnh V2 gạch của bị cáo ném trúng chân phải bị cáo. Bị cáo nhặt chiếc ghế nhựa màu vàng định đánh lại thì được mọi người can ngăn kéo về. Lúc này, G nói L1 bị chém chảy máu vai nên bị cáo lên xe của H1 đi về.
Bị cáo Lư Tiến H1 có lời khai thừa nhận: Ngày 20/12/2020, G rủ bị cáo đến quán nước khu vực hồ Cô Tiên, bị cáo đồng ý và mượn xe mô tô của anh Công đến quán nước bị cáo gặp G và khoảng 6 người bạn của G. G nói có người em bị đánh nên rủ bị cáo cùng đi đến quán “Cháo lòng 68”, bị cáo đồng ý. Khoảng 05 phút sau có Toan cũng là bạn của bị cáo đến. Bị cáo nói đi đến quán trà chanh trả mũ bảo hiểm rồi sẽ tự đến quán “Cháo lòng 68”. Đến quán, bị cáo đỗ xe 01 mình đứng cách quán “Cháo lòng 68” khoảng 20m. Sau 03 phút, bị cáo thấy 01 thanh niên mặc áo xanh da trời (sau biết tên là Thanh) chạy về hướng bị cáo đang đứng và có 05-07 người trong nhóm của G đang đuổi theo, thấy vậy, bị cáo đuổi ngược về phía Thanh dùng vai huých cản Thanh lại và dùng tay phải đấm 02-03 cái vào người Thanh thì đồng thời nhóm người của G cũng đuổi đến và cùng bị cáo dùng tay chân đánh đấm Thanh và đuổi ngược Thanh về quán “Cháo lòng 68”. Sau đó, bị cáo thấy D1 cầm dao chém vào vai L1. Thấy có người bị chém, mọi người tản ra không đánh nhau nữa, bị cáo cũng rủ Tòan đi về nhà.
Bị cáo Vũ Tiến N1 khai nhận: Bị cáo là bạn cùng lớp và cùng trọ với L1, Đạt. Ngày 19/12/2020, trong cH1ến đi thực tế, L1 có xích mích với D1 nên ngày 20/12/2020 về đến Hạ Long thấy L1 mượn xe của Nam, thái độ rất tức giận nên bị cáo và Đạt đi theo xem L1 có việc gì. Sau khi đến quán nước ở khu vực hồ Cô Tiên, bị cáo đã cùng L1 và các bạn của L1 khoảng hơn 10 người đi xe mô tô đến quán “Cháo lòng 68”. Đến nơi, bị cáo và Đạt không vào quán mà đứng ngoài nói chuyện. Một lúc sau, bị cáo thấy có khoảng 07 người trong nhóm L1 đuổi đánh Thanh, Thanh cũng dùng tay đánh trả lại nhóm L1 nên bị cáo chạy đến ôm, vật ngã, ghì Thanh xuống đất và Thanh tiếp tục bị nhóm L1 đánh 01-02 phút thì mọi người dừng lại quay ra chửi nhau. Bị cáo thấy L1 dùng tay ôm vai nên nghĩ L1 bị thương nên bảo Đạt đưa L1 đi Bệnh viện, sau nay mới biết vết thương ở vai là do L1 bị D1 dùng dao chém.
Bị cáo H1 N1 L2 khai nhận: Ngày 20/12/2020, C1 rủ bị cáo đi giải quyết mâu thuẫn ở quán “Cháo lòng 68”. C1 điều khiển xe mô tô chở bị cáo đi cùng với hơn 10 người khác. Đến nơi L1, V1, C1 và 03 người nữa vào quán “Cháo lòng 68”, bị cáo đứng ngoài. Khoảng 05 phút sau, nghe thấy tiếng chửi nhau, khi thấy Thanh bị nhóm L1 đánh, bị cáo và V2 chạy đuổi Thanh. Bị cáo nhặt chiếc muôi bằng kim loại trong quán đuổi kịp và dùng muôi đập 04 nhát vào chân của Thanh. Khi thấy D1 02 tay cầm 02 dao xông ra thì bị cáo không đánh Thanh nữa. Lúc sau, bị cáo thấy L1 ôm vai, C1 mặt đầy máu nên mọi người bảo nhau đưa L1, C1 đi cấp cứu. Trong lúc mọi người đánh nhau, bị cáo thấy có người phụ nữ mặc áo hồng (sau biết tên là Trang chủ quán “Cháo lòng 68”) cầm cán chổi bằng gỗ đập đánh nhóm bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Văn Đ1 khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 20/12/2020, Đỗ Thành C1 gọi điện cho bị cáo nói có va chạm và bảo bị cáo ra giúp, C1 nói đang ở quán nước gần hồ Cô Tiên, tại quán nước hồ Cô Tiên bị cáo gặp Đỗ Thành C1 và 01 nhóm thanh niên khoảng 13 người. Sau đó cả nhóm đi đến quán “Cháo lòng 68”. Đến nơi, bị cáo đỗ xe cách quán khoảng 20 mét rồi đi bộ lại gần quán. Thấy C1 vào quán rồi đi ra, C1 nói cho bị cáo biết bạn của C1 bị đánh nên cả nhóm đi giải quyết mâu thuẫn. Khi bị cáo đến cửa quán thì thấy nhóm của C1 bắt đầu lùi ra ngoài cửa quán trong đó có một người mặc áo khoác màu da trời (sau biết tên Thanh) bị nhóm người đi cùng C1 dùng tay đấm. Bị cáo cũng lao vào đấm 01 nhát vào Thanh nhưng bị trượt. Tiếp đó, bị cáo dùng chân phải đá 01 nhát trúng ngực Thanh. Do đông người và đấm đá hỗn loạn nên không để ý mọi người đánh Thanh như thế nào. Thanh chạy được thì bị C1, L1 đuổi theo, bị cáo không đuổi theo mà đi bộ ra xem sự việc thì thấy 01 nam thanh niên mặc áo dài tay trắng (sau này biết tên A1) cầm ghế nhựa màu vàng từ trong quán “Cháo lòng 68” dùng để đánh nhau với V2 trên vỉa hè. Thấy vậy, bị cáo chạy đến dùng tay chân đấm đá liên tiếp vào người A1. Trong lúc đánh nhau, bị cáo nhìn thấy má phải C1 bị chảy máu. Đánh nhau một lúc thì 02 nhóm tách nhau ra chửi nhau. Khi bị cáo đi bộ xuống lòng đường ra vị trí trước cửa quán “Cháo lòng 68” thì thấy L1 chân đi tập tễnh, vai bị chảy máu. Bị cáo thấy M1 dùng đá ném về nhóm kia không biết có trúng không. Sau đó bị cáo đi về.
Bị cáo Vũ Văn A1 khai nhận: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 20/12/2020, sau cH1ến đi thực tế về, bị cáo với các bạn cùng lớp là Lê T5A2, Nguyễn Văn H8, Trần H1 H1, Nguyễn H1 H6, Hà Bích N4, Nguyễn Thị Thu Trang đến quán “Cháo lòng 68” của gia đình Nguyễn Anh D1 ăn tối. Tại đây, bị cáo thấy D1 có điện thoại sau đó D1 đưa điện thoại cho H1 nói “bây giờ bọn Anh đang ăn có gì thì đến đây anh em nói chuyện tử tế”. Khoảng 20 phút sau, nhóm của L1 đến, có khoảng 07-08 người cùng L1 vào quán. L1 vào nói chuyện với D1, Trang chủ quán “Cháo lòng 68” được vài phút thì xảy ra to tiếng. T1 đã chỉ tay và chửi D1 được H1 can ngăn nhưng T1 vẫn tiếp tục chửi thì D1 chạy vào trong bếp. Bị cáo nhìn ra cửa thấy trong nhóm L1 có người lấy 01 gậy rút kim loại ra. Thanh đứng lên thì bị L1 khoác vai kéo ra ngoài. Liền sau đó, D1 chửi, tay cầm 02 con dao kim loại. Bị cáo thấy bên ngoài có xô xát, ồn ào tiếng hô hoán, Trang đã cầm ghế nhựa lao ra và D1 tay cầm dao chạy ra ngoài. Thanh bị 03-04 người của nhóm L1 dùng tay chân đánh sau đó Thanh vùng chạy. Thấy vậy, bị cáo tay phải cầm ghế nhựa màu vàng đi theo ra bên ngoài. Khi ra ngoài quán, bị cáo thấy có người nhóm L1 rút gậy 3 khúc bằng kim loại lao về phía Thanh và D1, 02 bên xảy ra đánh nhau trên vỉa hè. Bị cáo định chạy thì bị 01 nam thanh niên đội mũ đen, đeo khẩu trang nắm cổ tay trái của bị cáo giật mạnh lại, bị cáo dùng tay phải cầm chiếc ghế nhựa vung mạnh trúng vào người đó. Người này dùng tay đấm liên tiếp trúng gò má phải và người bị cáo. Bị cáo bị choáng nên tiếp tục cầm ghế nhựa vung mạnh về phía mặt người thanh niên. Liền sau đó có người từ phía sau đấm vào mặt bên phải của bị cáo 04-05 cái, người này tiếp tục dùng tay, chân lao vào đấm đá trúng mặt, lưng, vai bị cáo, chiếc ghế bị tuột khỏi tay nên bị cáo dùng tay đấm lại nhưng không biết có trúng ai không. Sau đó, bị cáo bị một vật cứng đập 01 phát trúng đầu, phía sau tai trái và dùng chân đạp trúng hông khiến bị cáo bị va phải một người ở dưới đất và ngã. Khi bị cáo đứng dậy mới biết là va phải Thanh. Bị cáo đi lên vỉa hè thấy D1 tay phải cầm dao mũi vuông, tay trái cầm dao nhọn vung dao chém vào vai L1. Lúc này, bị cáo phát hiện mình bị chảy máu ở vùng đầu nên bị cáo vào bên trong quán, một lúc sau có Công An đến làm việc.
Bị cáo Nguyễn Thị T2 khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 20/12/2020, khi bị cáo và D1 đang ở quán “Cháo lòng 68” thì có nhóm thanh niên đến tìm D1 đứng nhốn nháo trước cửa quán, gây ảnh hưởng đến lối ra vào của quán bị cáo. Sau khi nói chuyện bị cáo biết D1 có xích mích với nhóm thanh niên đó, thái độ, lời nói căng thẳng, xúc phạm nhau nên bị cáo đuổi nhóm này ra khỏi quán đồng thời cầm ghế nhựa màu vàng ném vào nhóm người này trúng vào ai thì trúng làm ồn ào trong quán. Sau đó, bị cáo thấy D1 lao vào trong bếp chạy ra ngoài vỉa hè, bị cáo chạy theo thì thấy D1 bị 04-05 người dùng gậy và tay chân đánh. Thấy vậy, bị cáo cầm cán chổi bằng gỗ nhặt ở vỉa hè vụt liên tiếp, loạn xạ vào nhóm người đang đánh D1, lần vụt cuối cùng trúng vào lưng của một người nhóm đánh D1. Sau đó, mọi người chạy tản ra, D1 cầm dao chạy theo 01 người, vung dao về phía lưng người đó. Thấy vậy, bị cáo chạy đến chỗ D1 giằng lấy 02 con dao D1 đang cầm đưa cho một người đứng gần bị cáo, bị cáo thấy người bị D1 đuổi theo bị thương ở vai rồi mọi người tản ra về. Nhóm người đến đánh D1 trong khi xô xát có người còn dùng đá ném về phía D1, người dùng gậy sắt đánh nhau với D1.
Bị cáo Quàng Văn M1 khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 20/12/2020, tại nhà trọ của Đặng Văn H9, Nguyễn Văn Đ1 gọi điện cho Chìu Văn Đ rủ Đông đi đánh nhau, bị cáo và Hùng cũng đi theo đến quán nước gần hồ Cô Tiên gặp Đ1 đang ngồi uống nước với khoảng 10 nam thanh niên khác. Ngồi một lúc thì nhóm của Đ1 cùng đi đến quán “Cháo lòng 68” thì bị cáo với Đông, Hùng cũng theo đi. Đến nơi, nhóm của Đ1 đã xảy ra xô xát, chửi nhau với D1. Nhóm của Đ1 kéo người mặc áo khoác màu xanh da trời đuổi đánh, thấy vậy bị cáo dùng tay đấm 02 nhát vào mặt, dùng chân đạp 01 nhát vào người mặc áo xanh. Khi người mặc áo xanh vùng chạy, bị cáo cùng mọi người đuổi theo, lúc này đông người và rất hỗn loạn nên bị cáo không rõ ai đánh ai. Bị cáo nhặt V2 gạch lát vỉa hè vỡ màu xám hình vuông đập vào đầu người mặc áo dài tay màu trắng 01 nhát. Do V2 gạch nặng nên bị cáo đập 01 nhát V2 gạch đã bị văng đi, có trúng ai bị cáo không biết. Bị cáo dùng tay đấm 01 nhát vào đầu, dùng chân đạp 01 nhát vào người mặc áo phông trắng. Bị cáo thấy người mặc quần áo màu đen, đội mũ lưỡi trai đánh người mặc áo xanh và có 01 thanh niên 02 tay cầm 02 dao đuổi chém vào vai 01 người bên nhóm bị cáo. Sau đó, hai bên di chuyển về quán “Cháo lòng 68”, có người dùng đá ném về nhóm bị cáo. Hai nhóm không đánh nhau mà đứng chửi nhau một lúc thì ra về.
Các bị cáo tỏ ra ân hận về hành vi phạm tội của mình và khẳng định việc Viện kiểm sát truy tố, Tòa án xét xử bị cáo Nguyễn Anh D1 về tội“Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1) Điều 134 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, H1 N1 L2, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và Quàng Văn M1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự; các bị cáo H1 Đạo L1, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1 và Nguyễn Văn Đ1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, không oan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Chu H1 N3 có lời khai thể hiện: Ngày 20/12/2020, L1 mượn chiếc xe Yamaha Sirius biển số 14U1-146.23 đi có việc. Anh Nam không biết L1 sử dụng xe vào việc gì vì vậy Anh Nam đề nghị được trả lại xe để có phương tiện đi lại.
Lê T5A2 có lời khai phù hợp với nội dung sự việc nêu trên. Thanh khai bị nhóm của H1 Đạo L1 kéo ra ngoài quán dùng tay, chân đánh trước cửa quán “Cháo lòng 68” và sau đó tiếp tục bị nhóm của H1 Đạo L1 đuổi đánh. Do bị đánh nên Thanh đã dùng tay đấm 02 nhát vào người bên nhóm L1 rồi tiếp tục bị đánh và bỏ chạy thoát; trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra có thu giữ của Thanh chiếc điện thoại di động, Thanh đề nghị được xin lại chiếc điện thoại di động.
Người làm chứng:
Nguyễn Văn H8, Trần H1 H1, Nguyễn Thị Thu G, Hà Bích N4, Nguyễn H1 H6, Nguyễn Minh T7, Phạm Trung K4, Phạm Thị P có lời khai phù hợp với nội dung sự việc nêu trên. Khi xảy ra sự việc, Hiệp và H1 trực tiếp ra can ngăn nhóm L1 và nhóm D1, những người còn lại chỉ đứng xem 02 nhóm này đuổi đánh nhau trước cửa quán “Cháo lòng 68”.
Vũ Phạm N1 L5, H1 N1 H10, Bùi Văn T8, Lê Tiến Đ có nội dung lời khai phù hợp với nội dung sự việc nêu trên: L2, Hà, Toan và Đạt khai đi cùng trong nhóm của H1 Đạo L1 đến quán “Cháo lòng 68” vào tối ngày 20/12/2020, tuy nhiên 04 người này đều chỉ đứng ngoài quan sát sự việc và vào can ngăn, không tham gia đuổi đánh nhau với nhóm của Nguyễn Anh D1.
Chìu Văn Đ và Đặng Văn H9 có nội dung lời khai phù hợp với nội dung sự việc nêu trên: Đông và Hùng khai đi cùng Nguyễn Văn Đ1 và Quàng Văn M1 đến quán “Cháo lòng 68” vào tối ngày 20/12/2020. Tại đây, khi nhóm của H1 Đạo L1 và Nguyễn Anh D1 xô xát, đuổi đánh nhau, Đông nhìn thấy D1 cầm 02 con dao ở trên tay nên vào ngăn định giật con dao trên tay D1 nhưng không được, còn Hùng nhặt được 01 chiếc điếu cày D1 làm rơi trên đất cầm trên tay để phòng thân, sau đó vứt điếu cày đi. Đông và Hùng chỉ đứng ngoài xem và không tham gia đuổi đánh nhau tại đoạn đường, vỉa hè trước cửa quán “Cháo lòng 68”. Chị Phạm Thị P khai: Khi thấy D1 vào bếp lấy dao đã giằng được 02 con dao của D1, sau đó, 02 nhóm to tiếng chửi nhau một lúc thì tự ra về.
Chị Vũ Kim L6 và chị Nguyễn Thị Thu H11 là những người hàng xóm cạnh quán “Cháo lòng 68” của bị cáo Trang có lời khai thể hiện: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 20/12/2020, trong lúc đang dọn dẹp vệ sinh quán để đi nghỉ thì các chị nghe thấy có tiếng hô hoán, chửi bới và tiếng chạy của nhiều người ở ngoài khu vực vỉa hè. Do quán đã đóng cửa và sợ hãi nên các chị không mở cửa ra xem ngoài đường có chuyện gì mà chỉ xem qua hệ thống Camera an ninh của quán và quan sát từ trên tầng xuống các chị thấy 01 nhóm thanh niên khoảng 20 người đuổi đánh nhau, chửi bới, hò hét, chạy từ trên vỉa hè tràn xuống lòng đường từ hướng quán “Cháo lòng 68” về phía trường Cao đẳng Y tế Quảng Ninh; sự việc rất hỗn loạn gây mất trật tự, An ninh ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình An ninh trật tự An toàn xã hội tại khu phố
Tại bản Cáo trạng số: 219/CT-VKSHL ngày 23/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H13 truy tố bị cáo Nguyễn Anh D1 phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1) Điều 134 Bộ luật Hình sự (BLHS); các bị cáo H1 Đạo L1, Vũ Văn A1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1 và Quàng Văn M1 đã phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng”, trong đó các bị cáo G, T1, L2, Trang, A1 và M1 phạm tội theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự; các bị cáo L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1 phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật Hình sự.
Kiểm sát V2 trình bày luận tội, đưa ra các chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Anh D1 phạm tội “Cố ý gây thương tích”; các bị cáo H1 Đạo L1, Vũ Văn A1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1 và Quàng Văn M1 đã phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Áp dụng: Điềm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn anh D1 từ 24 tháng đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng: Điềm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Thanh T1 từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 01/4/2021.
Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; (Đối với bị cáo H1 N1 L2 áp dụng thêm Điều 91; Điều 101); khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 BLHS; Đề nghị xử phạt các bị cáo Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1, Quàng Văn M1 mỗi bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Xử phạt bị cáo H1 N1 L2 18 tháng đến 21 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 42 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 3 Điều 35 của Bộ luật hình sự. Đề nghị phạt tiền các bị cáo L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1, mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
Về dân sự: Bị cáo D1 đã tự nguyện bồi thường, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường thêm nên không giải quyết.
Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc dép cao su; 03 (ba) đoạn gậy gỗ; 01 phần thân chổi rơm; 01 chiếc nõ điếu cày; 01 (một) chiếc điếu cày bằng tre; 04 con dao bằng kim loại; 01 chiếc mũ bảo hiểm; 01 chiếc áo khoác dạng áo gió màu xanh ghi dài tay; 01 chiếc áo thu đông màu đen, dài tay; 01 mũ lưỡi chai;
- Trả lại: 01 Xe mô tô BKS 14U1-464.41 kèm chìa khóa xe cho bị cáo Đỗ Thành C1; 01 xe mô tô BKS 14U1-146.23 kèm chìa khóa xe cho Anh Chu H1 N3; 01 xe mô tô BKS 14Z1-407.70 kèm chìa khóa xe, 01 điên thoại di động Iphone 7 Plus màu hồng cho bị cáo Nguyễn Thành V1; 01 xe mô tô BKS 34E1- 257.69 kèm chìa khóa xe cho bị cáo Nguyễn Văn Đ1; 01 xe mô tô BKS 29G1- 015.69, 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng cho bị cáo Nguyễn Vũ G1; 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen cho bị cáo Nguyễn Công V2; 01 điện thoại Samsung Galaxy A11 màu trắng cho bị cáo Vũ Văn A1, 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu vàng cho bị cáo Nguyễn Anh D1; 01 điện thoại Iphone X màu đen cho Lê T5A2.
Đối với Nguyễn Anh D1 có hành vi dùng dao chém gây thương tích cho Đỗ Thành C1 tổn hại 10% sức khỏe, quá trình điều tra, C1 có đơn đề nghị không xử lý hình sự đối với D1 nên Công An thành phố H13 xử phạt hành chính theo quy định.
Đối với Lê T5A2 bị L1 kéo ra trước cửa quán “Cháo lòng 68” đánh và bị nhóm L1, V1, C1, G, H1, N1, Đ1, M1, L2 đuổi đánh liên tiếp, Thanh có đấm lại L1 01 đấm nhưng thuộc trường hợp phòng vệ chính đáng; Nguyễn Văn H8, Trần H1 H1, Vũ Phạm N1 L5, H1 N1 H10, Bùi Văn T8, Lê Tiến Đ, Chìu Văn Đ và Đặng Văn H9 tuy có mặt tại hiện trường vụ án nhưng không tham gia vào việc hò hét, đuổi đánh nhau, nên không đề cập xử lý.
Người đại diện hợp pháp; người bào chữa của bị cáo H1 N1 L2 đề nghi Hội đồng xét xử xem xét bị cáo L2 phạm tội ở tuổi vị thành niên, nhận thức pháp luật hạn chế đề nghị cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.
Tại phần tranh luận, các bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát V2.
Lời sau cùng, các bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công An thành phố Hạ Long, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Kiểm sát Viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa như: Đơn trình báo, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; đơn đề nghị của tổ dân 1A, khu phố 6A; công văn, báo cáo của Công An và Ủy ban nhân dân phường H12, thành phố H13; Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ, bản ảnh hiện trường; Biên bản nhận dạng; bản ảnh vật chứng; bản ảnh giải trình Video camera; Kết luận giám định pháp y thương tích số:
40/21/TgT ngày 14/01/2021; số: 84/21/TgT ngày 27/01/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Quảng Ninh; tài liệu, hình ảnh số hóa được trình chiếu tại phiên tòa, đoạn Video Clip trích xuất từ Camera an ninh thu giữ tại hiện trường; Bản luận tội Kiểm sát V2 trình bày tại phiên tòa.
Với những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 20 ngày 20/12/2020, tại khu vực đoạn đường Tôn Thất T1 thuộc tổ 1A, khu 6A, phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh, là khu vực đông dân cư, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, nhóm H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ Thanh T1, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quàng Văn M1 và nhóm Nguyễn Anh D1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 đã có hành vi sử dụng hung khí và tay chân, đánh nhau gây náo loạn khu dân cư, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội nơi công cộng. Trong đó: Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, H1 N1 L2, Quàng Văn M1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và Nguyễn Anh D1 sử dụng gậy 3 khúc, muôi kim loại, cán chổi bằng gỗ, các V2 đá, dao, điếu cày, ghế nhựa; H1 Đạo L1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Thành V1, Nguyễn Công V2, Vũ Tiến N1, Lư Tiến H1 và Nguyễn Văn Đ1 sử dụng tay chân. Nguyễn Anh D1 đã có hành vi dùng dao đâm, chém H1 Đạo L1 gây thương tích, tổn hại 17% (mười bảy phần trăm) sức khỏe; dùng dao đâm, chém Đỗ Thành C1 gây thương tích, tổn hại 10% (mười phần trăm) sức khỏe.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo Nguyễn Anh D1 trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi của các bị cáo H1 Đạo L1, Vũ Văn A1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1 và Quàng Văn M1 xâm phạm đến trật tự công cộng, đến cuộc sống sinh hoạt ổn định của cộng đồng, vi phạm quy tắc, nếp sống văn minh của người dân nơi công cộng. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo D1 đã sử dụng dao, điếu cày là hung khí nguy hiểm gây tổn hại 17 % sức khỏe cho H1 Đạo L1. Hành vi đó thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã thỏa mãn dấu hiệu và đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 (với tình tiết định khung tăng nặng “Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1) Điều 134 của Bộ luật hình sự, có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 06 năm. Các bị cáo H1 Đạo L1, Vũ Văn A1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1 và Quàng Văn M1 gây mất trật tự A1 ninh, A1 toàn tại địa phương, hành vi đó thỏa mãn và đủ dấu hiệu cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại Điều 318 của Bộ luật hình sự, trong đó các bị cáo Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, H1 N1 L2, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và Quàng Văn M1 sử dụng hung khí nguy hiểm nên thuộc trường hợp nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật hình sự, có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Hành vi của các bị cáo H1 Đạo L1, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, Nguyễn Văn Đ1 thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
[3] Xét về vai trò, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: H1 Đạo L1 bị tổn hại sức khỏe 17% là do hành vi của bị cáo Nguyễn Anh D1 gây lên, vì vậy, bị cáo D1 phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích”. Hành vi phạm tội của các bị Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, H1 N1 L2, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1, Quàng Văn M1, H1 Đạo L1, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1 và Nguyễn Văn Đ1 có tính chất đồng phạm giản đơn, trước khi thực hiện hành vi phạm tội không có sự bàn bạc trao đổi với nhau, các bị cáo đều là người thực hành trong vụ án.
Các bị cáo đều có nhân thân tốt, riêng bị cáo Vũ Thanh T1 nhân thân xấu vì từng bị xét xử tội “Cố ý gây thương tích”. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo D1 tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Các bị cáo L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Vì vậy, các bị cáo đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s (áp dụng thêm điểm b đối với bị cáo D1; điểm i đối với các bị cáo L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1) khoản 1 (bị cáo D1 được áp dụng thêm khoản 2) Điều 51của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật mà cải tạo, giáo dục thành người lương thiện có ích cho gia đình và xã hội.
Bị cáo H1 N1 L2 phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên được áp dụng các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Xét bị cáo Vũ Thanh T1 có nhân thân xấu: Năm 2019 bị kết án về tội “Cố ý gây thương tích”, sau khi chấp hành án phạt tù trở về địa phương bị cáo T1 không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần buộc bị cáo T1 phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu trA1h chống tội phạm.
Các bị cáo D1, G, L2, Trang, A1, M1, L1, V1, C1, V2, H1, N1 và Đ1, ngoài lần phạm tội này, các bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, không có tiền án tiền sự, bị cáo D1, L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1 có 02 tình tiết giảm nhẹ và các bị cáo đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị về mức hình phạt của Kiểm sát V2 tại phiên tòa là phù hợp, không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Do đó áp dụng hình phạt phạt tiền đối với các bị cáo L1, V1, C1, V2, H1, N1, Đ1. Các bị cáo D1, G, L2, Trang, A1 và M1 được hưởng án treo. Như vậy cũng đảm bảo sự răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm và qua đó cũng thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường thêm và đề nghị gì khác nên không giải quyết.
[5] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S20, màu đen, 01 sim điện thoại di động cho Anh Vũ Phạm N1 L5; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max và 01 Micro sim cho chị H1 N1 H10; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đỏ và 01 sim điện thoại di động cho Anh Nguyễn Văn H8; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max và 01 sim điện thoại di động cho Anh Trần H1 H1, nên không đề cập giải quyết.
- Đối với 01 chiếc dép cao su; 03 đoạn gậy gỗ; 01 phần thân chổi rơm; 01 nõ điếu cày; 01 điếu cày bằng tre; 04 con dao bằng kim loại, là công cụ phạm tội; 01 chiếc mũ bảo hiểm; 01 chiếc áo khoác dạng áo gió màu xanh ghi dài tay;
01 chiếc áo thu đông màu đen, dài tay; 01 chiếc mũ lưỡi trai màu xanh rêu không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 05 xe mô tô BKS xxU1- 464.xx, xxU1-146.xx, xxZ1- 407.xx, xxE1- 257.xx, xxG1- 015.xx thu giữ lần lượt của bị cáo Đỗ Thành C1, Anh Chu H1 N3, bị cáo Nguyễn Thành V1, bị cáo Nguyễn Văn Đ1, bị cáo Nguyễn Vũ G1. Anh Nam không biết L1 mượn xe sử dụng vào việc gì. Các bị cáo C1, V1, Đ1, G không có mục đích sử dụng xe mô tô để phạm tội, do đó trả lại xe mô tô cho Anh Nam và các bị cáo; 07 chiếc điện thoại di động kèm sim thu giữ của các bị cáo G, V2, A1, C1, V1, D1 và Lê T5A2 không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho các bị cáo và Lê T5A2.
Đối với 03 đĩa DVD ghi lại sự việc xảy ra vào đêm ngày 20/12/2020 đã được niêm phong lưu hồ sơ vụ án.
[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người đại diện của bị cáo; người bào chữa có quyền kháng cáo Bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Anh D1 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh D1 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Thanh T1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Xử phạt: Bị cáo Vũ Thành T1 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 01/4/2021.
Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65; (đối với bị cáo H1 N1 L2 áp dụng thêm Điều 91; Điều 101) của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Vũ G1, H1 N1 L2, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1 và Quàng Văn M1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Xử phạt: Các bị cáo Nguyễn Vũ G1, Nguyễn Thị T2, Vũ Văn A1, Quàng Văn M1 mỗi bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Xử phạt: Bị cáo H1 N1 L2 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba mươi sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Anh D1 và bị cáo Nguyễn Thị T2 cho Ủy ban nhân dân (UBND) xã Đ5, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình bị cáo D1, bị cáo Trang có trách nhiệm phối hợp với UBND xã Đ5, thị xã T12, tỉnh Quảng Ninh trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo D1, Trang.
Giao bị cáo Nguyễn Vũ G1 cho UBND phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị có G có trách nhiệm phối hợp với UBND phường H12, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh trong việc giám sát, giáo dục bị cáo G.
Giao bị cáo Vũ Văn A1 cho UBND phường H19, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị có A1 có trách nhiệm phối hợp với UBND phường H19, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục bị cáo A1.
Giao bị cáo Quàng Văn M1 cho UBND xã B3, H1ện L5, tỉnh L6 giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo M1 có trách nhiệm phối hợp với UBND xã B3, H1ện L5, tỉnh L6 giám sát, giáo dục bị cáo M1.
Giao bị cáo H1 N1 L2 cho UBND phường X1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo L2 có trách nhiệm phối hợp với UBND phường X1, thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục bị cáo L2.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.
Căn cứ: Khoản 1 Điều 318; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 3 Điều 35 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Các bị cáo H1 Đạo L1, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, Nguyễn Văn Đ1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Xử phạt: Các bị cáo H1 Đạo L1, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1 và Nguyễn Văn Đ1, mỗi bị cáo 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với các bị cáo H1 Đạo L1, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, Nguyễn Văn Đ1; hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú các số: 234, 239, 242, 244, 245, 246 ngày 23/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố H13, tỉnh Quảng Ninh đối với các bị cáo Nguyễn Anh D1, Nguyễn Vũ G1, H1 N1 L2, Vũ Văn A1, Nguyễn Thị T2 và Quàng Văn M1.
Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc dép bàn chân trái, màu đen bằng cao su, “logo Adidas”; 03 (ba) đoạn thanh gỗ bị gãy; 01 (một) phần thân chổi rơm; 01 (một) nõ điếu cày bằng kim loại; 01 (một) chiếc điếu cày bằng tre; 01 (một) con dao loại dao chế biến thực phẩm, mũi dao vuông bằng kim loại, dài khoảng 35,5cm, bị mẻ ở phần lưỡi dao, in chìm số 9999; 01 (một) con dao loại bầu, bằng kim loại, dài khoảng 35,5cm, mũi dao nhọn, trên bản dao có in chữ “NHÍP XE”; 01 (một) con dao loại dao chế biến thực phẩm, mũi dao vuông, dài khoảng 36cm, bản in chìm số 9999; 01 (một) con dao loại dao chế biến thực phẩm, dài khoảng 35,5cm, mũi dao vuông bằng kim loại, in chìm số 9999; 01 (một) chiếc mũ bảo hiểm dạng mũ lưỡi trai, chất liệu nhựa, màu đen, mặt phía trước mũ có in chữ “ADIDAS”; 01 (một) chiếc áo khoác dạng áo gió màu xanh ghi dài tay; 01 (một) chiếc áo thu đông màu đen, dài tay, có mũ liền áo, dạng áo cổ chui; 01 (một) chiếc mũ lưỡi trai màu xanh rêu.
- Trả lại:
Anh Chu H1 N3 (sinh năm 2000; địa chỉ: Tổ 77, khu 6B, phường Cẩm Phú, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh) 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn đen đỏ, BKS xxU1-146.xx, số khung RLCS5C6207Y026080, số máy 5C62026080 kèm chìa khóa xe mô tô;
Bị cáo Nguyễn Anh D1 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu vàng;
Anh Lê T5A2 (sinh năm 2001; nơi cư trú Thôn Quảng G, xã Đại Hợp, H1ện Tứ Kỳ, tỉnh D2) 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, màu đen, kèm 01 (một) micro sim điện thoại;
Bị cáo Đỗ Thành C1 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn trắng, BKS xxU1-464.xx, số khung RLHJA3913LY291842, số máy JAxxE- 1630199, kèm chìa khóa xe; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, màu xanh, kèm 01 (một) sim điện thoại;
Bị cáo Nguyễn Thành V1 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn xanh, BKS xxZ1-407.xx, số khung RLHJA3917KY043673, số máy JA39E-0899710, kèm chìa khóa xe; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu hồng, kèm 01 (một) sim điện thoại;
Bị cáo Nguyễn Vũ G1 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng, BKS xxG1-015.xx, số khung RLCS5C630BY465328, số máy 5C63-465379, kèm chìa khóa xe; 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone (kiểu dáng Iphone X) màu trắng, nứt màn hình góc cạnh phải, kèm 01 (một) micro sim;
Bị cáo Nguyễn Văn Đ1 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu sơn trắng đen bạc, BKS 34E1-257.69, số khung RLHJA3908HY912844, số máy JA39E-0792996, kèm chìa khóa xe;
Bị cáo Nguyễn Công V2 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone (kiểu dáng Iphone 7 Plus), màu đen, kèm 01 (một) sim điện thoại;
Bị cáo Vũ Văn A1 01 (một) chiếc điện thoại Samsung Galaxy A11, màu trắng, kèm 01 (một) micro sim điện thoại;
Tình trạng vật chứng được thi hành theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 249/BB-THA ngày 23/9/2021 giữa Công An thành phố H13 và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H13.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Nguyễn Anh D1, H1 Đạo L1, Vũ Văn A1, Nguyễn Thị T2, Nguyễn Thành V1, Đỗ Thành C1, Nguyễn Công V2, Nguyễn Vũ G1, Vũ Thanh T1, Lư Tiến H1, Vũ Tiến N1, H1 N1 L2, Nguyễn Văn Đ1, Quàng Văn M1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 261/2021/HS-ST
Số hiệu: | 261/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về