Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 08/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 22 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2022/TLST - HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST - HS ngày 08/02/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Năng T, tên gọi khác: Bút L, sinh ngày: 19/3/1995, nơi cư trú: thôn B 2, xã X huyện T, tỉnh Thanh Hóa, trình độ văn hóa: 6/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Lê Năng T (đã chết), mẹ đẻ: Lê Thị H , sinh năm: 1966, gia đình 02 anh em, bị cáo là con thứ hai, chưa có vợ con, tiền sự: Không. Tiền án:

Ngày 28/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 39 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích Ngày 20/9/2016 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh hóa xử phúc thẩm 05 tháng tù giam về tội đánh bạc do bị cáo kháng cáo Bản án ngày 19/7/2016, Bị Tòa án nhân dân huyện T Thanh Hóa Nhân thân: Năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện D, Tỉnh B xử phạt 15 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật và cưỡng đoạt tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/8/2021 đến nay tại nhà tạm giữ, tạm giam công an huyện T. Có mặt

2.Họ và tên: Lê Thế A, sinh ngày 02/3/1991, nơi cư trú: thôn B 2, xã X huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa: 12/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Lê Năng T (đã chết), mẹ đẻ: Lê Thị H, sinh năm 1966. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con đầu, có vợ là Lê Thị T, sinh năm 1988, có 02 con sinh năm 2017 và 2019. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 03/4/2018, bị Công an huyện T xử phạt hành chính về hành vi “xâm hại sức khỏe người khác” bằng hình thức phạt tiền, đã thi hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/8/2021 đến ngày 29/8/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt

3. Họ và tên: Lê Năng T, sinh ngày: 10/9/1981, nơi cư trú: thôn B 1, xã X huyện T, tỉnh Thanh Hóa, Trình độ văn hóa: 10/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Lê Năng H, sinh Năm 1958, mẹ đẻ: Hồ Thị T (đã chết), gia đình 04 anh em, bị cáo là con đầu. Vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1989, có 01 con sinh năm 2016. Tiền sự: Ngày12/01/2021 bị Ủy ban nhân dân xã X, huyện T xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác.

Tiền án: Ngày 21/9/ 2018, bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy Nhân thân: Ngày 10/8/ 2010, bị tòa án nhân dân thành B Đ xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy.(đã chấp hành xong) Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/8/2021 đến nay tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện T. Có mặt

4.Họ và tên: Đàm Văn C, tên gọi khác: Nam, sinh ngày 02/10/1988, nơi cư trú: thôn 1, xã Thọ T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa: 9/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Đàm Văn T, sinh năm 1960, mẹ đẻ: TrịnhThị A, sinh năm 1964, gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 2, vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1995, có 02 con, sinh năm 2018 và 2020. Tiền ánTiền sự: Không. Nhân thân:

- Năm 2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh H D xử phạt 15 năm 6 tháng tù về tội giết người, cướp tài sản (phạm tội khi chưa thành niên và được giảm án, (đã chấp hành xong Bản án năm 2016).

- Tháng 10 năm 2017 bị Công an huyện T, Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác.

- Ngày 05/9/2019, bị Công an huyện Y, Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác (đã chấp hành xong).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/8/2021 đến nay tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện T. Có mặt 5.Họ và tên: Lê Xuân H, sinh ngày 09/9/1999, nơi cư trú: thôn L, xã X huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa: 9/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo : Không. Bố đẻ: Lê Xuân T, sinh Năm 1966, mẹ đẻ: Lê Thị K, sinh năm 1966. Gia đình có 03 anh em, bị có là con thứ 3, chưa có vợ con. Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 12/01/2021 bị Ủy ban nhân dân xã X, huyện T xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/8/2021 đến nay tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện T. Có mặt 6.Họ và tên: Bùi Văn C, sinh ngày 05/02/1994, nơi cư trú: thôn 4, xã Q, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa: 11/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Công giáo. Bố đẻ: Bùi Văn K, sinh năm 1964, mẹ đẻ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1964. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 3, chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 15/10/2018 bị Tòà án nhân dân huyện T thụ lý vụ án hình sự về hành vi Cố ý gây thương tích nH do bị hại rút đơn nên HĐXX đã đình chỉ vụ án, bị can.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/8/2021 đến nay tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện T. Có mặt 7.Họ và tên: Lê Bá Đ, sinh ngày 16/02/1997, nơi cư trú: thôn V, xã X huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa¸: 11/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Lê Bá T, sinh Năm 1970, mẹ đẻ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1973, gia đình 03 anh em, bị cáo là con thứ hai, chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/8/2021 tại nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện T đến ngày 20/12/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cho bảo lĩnh. Có mặt 8.Họ và tên Lê Đình Đ, sinh ngày 10/3/1982, nơi cư trú: thôn H, xã Y, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa: 9/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Lê Đình Đ, sinh năm 1958, mẹ đẻ: Lê Thị B, sinh năm 1957. Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con đầu. Vợ: Lê Thị H, sinh năm 1983, có 02 con, sinh năm 2004 và 2012. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/8/2021 đến ngày 29/8/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

9.Họ và tên Nguyễn Văn G, sinh ngày 20/10/1984, nơi cư trú: Thôn T, xã Xuân H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa: 9/12, nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Nguyễn Văn, sinh năm 1955, mẹ đẻ: Đỗ Thị M Sinh năm 1958. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con đầu. Vợ: Lê Thị Ng, sinh năm 1988, có 01 con, sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Không Ngày 26/6/2020 bị Ủy ban nhân dân xã Xuân H, T xử phạt vi phạm hành chính về “khai thác khoán sản trái phép” (đã chấp hành xong năm 2020) Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/8/2021 đến ngày 29/8/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt 10. Họ và tên Lê Văn D, sinh ngày 11/9/1996, nơi cư trú: thôn Hà L, xã Thọ D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Trình độ văn hóa: 12/12, nghề nghiệp: Lao động tự do;

Quốc tịch: Việt Nam, D tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Bố đẻ: Lê Văn H (đã chết), mẹ đẻ: Nguyễn Thị L - Sinh năm 1965. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 4. Vợ: Lê Thị T, sinh năm 1995, có 01 con, sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/8/2021 đến ngày 29/8/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Văn D, sinh năm: 1969.

2. Anh Phạm Văn D, sinh năm: 1994.

Đều trú tại: Thôn 1, xã Thọ T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

3. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: Khu 5, thị trấn T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

4. Anh Hoàng Đình C, sinh năm: 1990.

Địa chỉ: Thôn H, xã X, huyện T, Thanh Hóa

5. Anh Lê Năng D, sinh năm: 1986.

Địa chỉ: Thôn B 2, xã X, huyện T, Thanh Hóa

6. Chị Trịnh Thị T, sinh năm: 1986.

7. Bà Mạc Thị B, sinh năm: 1969.

Đều trú tại: Thôn L, xã X, huyện T, Thanh Hóa

8. Anh Hà Văn L, sinh năm: 1996.

Địa chỉ: Bản V, xã P, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa

9. Anh Lê Tuyến H, sinh năm: 1984.

Địa chỉ: Thôn L, xã Thọ D, huyện T, Thanh Hóa (Người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Công ty cổ phần bất động sản Phú H do anhTrần Trung Kiên là giám đốc đang thi công san lấp mặt bằng để mở rộng xưởng sản xuất cho Công ty may Minh Anh đóng tại thôn L, xã X, huyện T. Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 20/8/2021, khi anh Kiên với anh Ứng là quản lý của Công ty Minh Anh đang đứng chỉ đạo cho Công nhân san lấp đất tại Công trường G với Công ty may Minh Anh thì có Lê Năng T, tên gọi khác (Bút Lây), sinh năm 1995 và Lê Thế A sinh năm 1991(là anh trai của T), trú tại thôn B 2, xã X, mặc quần đùi, cởi trần và xăm trổ trên người đi đến, T có chào anh Kiên nH anh chưa kịp trả lời thì T to Tg chửi bới, đe dọa “ Bay có muốn làm ăn ở đây không” lúc này anh Kiên nói “do đang quan sát Công trình, không có ý gì mong các anh thông cảm”. T và Thế A tiếp tục chửi bới thách thức anh Kiên mặc dù Kiên đã xin lỗi và vào trong xe ô tô ngồi nH cả hai vẫn chửi bới và yêu cầu anh Kiên ra khỏi xe để nói chuyện. Thấy sự việc trên Đàm Văn C (tức Nam), anh Lê Đình Đ và Nguyễn Văn G là Công nhân đang lao động tại đó lại can ngăn nH bị T chửi bới, đe dọa. Do bực tức nên Lê Đình Đ chạy về lán của Công trình lấy 01 con dao năm và 01 cây kiếm tự chế chạy đến để đánh T nH được mọi người can ngăn, lúc này C giật lấy kiểm tự chế Đ đang cầm lùa đuổi đánh và chém 01 nhát trúng vào lưng của T, C và T giằng co kiếm với nhau thì G xông vào đấm vào lưng T 01 cái, anh Kiên vào can ngăn giật được kiếm C đang cầm và tách C, T ra. C tiếp tục giật được dao từ Đ đang cầm lùa đuổi đánh T nH được một số người can ngăn nên dừng lại. Thấy T bị đánh, Thế A chạy vào phòng bảo vệ của Công ty lấy 02 gậy cao su ra định xông lại đánh nH bị mọi người cản lại, sau đó Đ đuổi theo Thế A, Anh bỏ chạy về hướng Công ty may Minh Anh nên Đ không đuổi nữa còn T lên xe máy bỏ đi về hướng Ủy ban nhân dân xã X.

Sau khi bị chém Lê Năng T gọi điện cho Lê Bá Đ (sinh năm 1997) trú tại thôn Vân Lộ, xã X, huyện T nói là bị đánh ở Công ty may Minh Anh, lúc đó Đ đang ở Công ty H Thịnh Phát tại thị trấn T cùng với Bùi Văn C (sinh năm 1994), trú tại thôn 4, xã Quảng Phú, huyện T, Đ rủ C đi xuống xã X sau đó cả hai đi xe máy cầm theo 02 gậy bóng chày đến Công ty may Minh Anh.

Sau khi gọi điện cho Đ xong thì Lê Năng T cùng Lê Thế A đi xe máy về nhà T đối diện Công ty May Minh Anh để lấy hung khí, tại nhà T lúc đó có Lê Năng T, Lê Xuân H, khi nghe T nói bị nhóm Công nhân đánh và thấy T lấy kiếm tự chế cầm chạy ra cổng thì T, H, Thế A cũng chạy theo. Khỉ đến khu vực Công nhân đang làm việc, T cầm kiếm tự chế, Lê Bá Đ và C cầm gậy bóng chày, H và T lấy tại khu vực Công trường mỗi người cầm 01 đoạn đoạn tuýp sắt truy đuổi nhóm của C để đánh, lúc này C cầm Cào vẹt, Lê Đình Đ cầm xẻng, Nguyễn Văn G cầm cuốc, Lê Văn D cầm kiếm tự chế đánh trả lại. Quá trình xô sát Lê Đình Đ cầm xẻng đập 01 cái trúng vào mặt ngoài cẳng tay trái của T. Hai bên cầm hung khí đồng thời nhặt thêm gạch, đá, đất tại khu vực Công trường ném nhau, T ném 01 cái trúng vào lưng Đàm Văn C.

Hai bên lùa đuổi đánh nhau từ cổng Công ty may Minh Anh, dọc theo đường tỉnh lộ 515 kéo dài về khu đất Công ty Minh Anh đang san lấp đang san lấp mở rộng, sau đó nhóm Công nhân (tức nhóm của C) bỏ chạy vào khu đất đang san lấp, T và nhóm của T đuổi theo nH thấy nhóm của C chạy sâu vào trong và thấy có nhiều Công nhân khác đang làm việc tại đó nên không tiếp tục đuổi theo mà dừng lại đứng chửi bới nhóm của C.

Nhận được tin báo Công an xã X và Công an huyện T đã có mặt kịp thời để giải quyết nên vụ việc được dừng lại, cùng ngày T, Thế A, T, Đ, C, H, Đ, C, D, G đã ra đầu thú khai báo về hành vi phạm tội của mình tại Công an xã X và Cơ quan điều tra Công an huyện T.

Quá trình xảy ra xô xát đánh nhau các bị cáo Lê Năng T, Đàm Văn C, Lê Đình Đ có bị thương tích, tuy nhiên do thương tích nhẹ nên các bị cáo không yêu cầu xử lý về hình sự và từ chối giám định thương tích nên không có căn cứ để xem xét xử lý về tội Cố ý gây thương tích.

Sau khi nhận được tin báo, Công an xã X đã báo cáo Công an huyện T để giải quyết vụ việc, đồng thời T hành làm việc với các đối tượng và nhân chứng, thu giữ đồ vật tài liệu liên quan.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01(một), kiếm tự chế, cán làm bằng đoạn tuýp sắt hình trụ, dài 38cm, đường kính 2,5cm, thân kiếm bằng kim loại dài 60cm, chỗ rộng nhất 3cm, đầu nhọn, một cạnh sắc.

- 01 (một) bao kiếm bằng gỗ, màu đen dài 60cm, rộng 04 cm. Hai đầu bao buộc dạng dây mây, đoạn giữa buộc dây vải và dây nhựa màu trắng.

- 01 (một) chiếc Cào vét bằng kim loại, cán bằng tre dài 138cm - 01 (một) chiếc xẻng bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre.

- 01 (một) cuốc bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre dài 145cm - 01 (một) điện thoại di động thu của Lê Năng T, nhãn hiệu OPPO Renno 5 màu đen, đã qua sử dụng. Số Imei1: 865545052919170 gắn thẻ sim có số thuê bao 0966.775.597, - 01 (một) đoạn ống sắt dạng trụ tròn dài 99cm, đường kính 2,7cm. Mặt ngoài có nhiều vết móp méo kim loại và bám dính chất màu đen.

- 01(một) đoạn gậy bằng kim loại (dạng gậy bóng chày) màu đen, trên thân có dòng chữ “Bát” gậy có chiều dài 70,5cm, đường kính một đầu 2,5cm, đầu còn lại đường kính 5cm.

- 01(một) kiếm tự chế, cán bằng gỗ được quấn băng dính màu đên và trắng dài 22,8cm, đường kính 02cm; thân kiếm bằng kim loại dài 74cm, rộng 03cm, đầu nhọn, một cạnh sắc.

Cáo trạng số 07/CT-VKS -TX ngày 12/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố các bị cáo: Lê Năng T, Lê Bá Đ, Lê Xuân H, Lê Thế A, Bùi Văn C, Đàm Văn C, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G, Lê Văn D về tội: "Gây rối trật tự Công cộng" theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự; Truy tố bị cáo Lê Năng T về tội: "Gây rối trật tự Công cộng" theo các điểm b, e khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: Lê Năng T, Lê Bá Đ, Lê Xuân H, Lê Thế A, Bùi Văn C, Đàm Văn C, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G, Lê Văn D phạm tội: "Gây rối trật tự Công cộng" theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự; Bị cáo Lê Năng T phạm tội: "Gây rối trật tự Công cộng" theo các điểm b, e khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

Đề nghị HĐXX áp dụng: Điểm b, e khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo: Lê Năng T;

Áp dụng: Điểm b khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo: Lê Năng T;

Áp dụng: Điểm b khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51; Bộ luật hình sự đối với các bị cáo: Lê Xuân H và Đàm Văn C;

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo: Bùi Văn C, Lê Bá Đ, Lê Thế A, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G và Lê Văn D; Đề nghị:

- Xử phạt: Bị cáo Lê Năng T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/8/2021.

- Xử phạt Bị cáo Lê Thế A từ 33 đến 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Năng T từ 30 năm đến 35 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/8/2021.

- Xử phạt: Bị cáo Đàm Văn C từ 28 đến 30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/8/2021.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân H từ 27 đến 29 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/8/2021.

- Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn C từ 26 đến 28 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 52 tháng đến 56 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. đề nghị trả tự do cho bị cáo C tại phiên tòa.

- Xử phạt Bị cáo Lê Bá Đ từ, Lê Đình Đ và Nguyễn Văn G từ 25 đến 27 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 50 đến 54 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt Bị cáo Lê Văn D từ 24 đến 26 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 52 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(một), kiếm tự chế, cán làm bằng đoạn tuýp sắt hình trụ, dài 38cm, đường kính 2,5cm, 01 (một) bao kiếm bằng gỗ, màu đen dài 60cm, rộng 04 cm, 01 (một) chiếc Cào vét bằng kim loại, cán bằng tre dài 138cm, 01 (một) chiếc xẻng bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre, 01 (một) cuốc bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre dài 145cm, 01 (một) đoạn ống sắt dạng trụ tròn dài 99cm, đường kính 2,7cm,01(một) đoạn gậy bằng kim loại (dạng gậy bóng chày) màu đen, 01(một) kiếm tự chế, cán bằng gỗ được quấn băng dính màu đên và trắng dài 22,8cm, đường kính 02cm;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Renno 5 màu đen, đã qua sử dụng. Số Imei1: 865545052919170 gắn thẻ sim có số thuê bao 0966.775.597, Buộc các bị cáo chịu án phí HSST theo quy định pháp luật;

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, các bị cáo đều đề nghị HĐXX cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra; Đối chiếu với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đều phản ánh thống nhất khách quan: Vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 20/8/2021 tại khu vực Công trường đang thi Công san lấp mặt bằng mở rộng của Công ty Minh Anh tiếp G với Công Ty và đường tỉnh lộ 515 thuộc địa phận thôn L, xã X, huyện T. Các bị cáo Lê Năng T, Lê Năng T, Lê Bá Đ, Lê Xuân H, Lê Thế A, Bùi Văn C, Đàm Văn C, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G, Lê Văn D đã có hành vi chửi bới, xô sát đánh nhau, truy đuổi nhau trong khoảng thời gian gần 01 giờ, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự tại khu vực. Do đó hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: "Gây rối trật tự Công cộng". Tất cả các bị cáo đều đã dùng hung khí nên các bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 2 điều 318 Bộ luật hình sự. Riêng đối với bị cáo Lê Năng T, do đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo còn phải chịu thêm tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 2 điều 318 Bộ luật hình sự.

Vì vậy có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Lê Năng T, Lê Bá Đ, Lê Xuân H, Lê Thế A, Bùi Văn C, Đàm Văn C, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G, Lê Văn D phạm tội: "Gây rối trật tự Công cộng" theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự;

Bị cáo Lê Năng T phạm tội: "Gây rối trật tự Công cộng" theo các điểm b, e khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự Cáo trạng số 07/CT-VKS -TX ngày 12/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất mức độ nghiêm trọng của vụ án: HĐXX thấy rằng: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự nơi Công cộng, vi phạm nếp sống văn minh, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường nơi Công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có năng L trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tích chất, mức độ tội phạm đã thực hiện. Tuy nhiên cũng cần xem xét đến vai trò của từng bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo để áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi các bị cáo đã gây ra.

[4] Xét về vai trò thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo, HĐXX thấy rằng: Vụ án gây rối trật tự Công cộng này có nhiều bị cáo ở hai nhóm với nhau tham gia, tuy nhiên giữa các bị cáo trong cả 2 nhóm không có sự phân Công vai trò trách nhiệm cụ thể cho từng người nên vụ án không có tính tổ chức mà chỉ là trường hợp đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên vị trí vai trò của từng bị cáo trong vụ án là khác nhau, trong đó: Bị cáo Lê năng T và Lê Thế A là người pH chịu trách nhiệm hình sự cao nhất, Lê Năng T là người chủ động và lôi kéo một số đồng phạm khác và là người tham gia gây rối tích cực nhất. Lê Thế A được xếp giữ vị trí thứ 2 sau bị cáo T vì tham gia từ giai đoạn đầu cho đến khi kết thúc.

Xếp vị trí thứ 3 là các bị cáo: Đàm Văn C, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G, vì tham gia ngay từ đầu cho đến khi kết thúc. Các bị cáo Lê Bá Đ, Bùi Văn C, Lê Năng T và Lê Xuân H chỉ tham gia xô xát đánh nhau giai đoạn sau nên có vai trò thấp hơn và được xếp vị trí thứ tư. Đối với bị cáo Lê Văn D mức độ tham gia gây rối hạn chế hơn các bị cáo khác, bị cáo chỉ tham gia giai đoạn cuối, nên bị cáo chỉ pH chịu trách nhiệm ở vai trò sau cùng trong vụ án. Đối với các bị cáo được xếp ở cùng nhóm, thì bị cáo nào thực hành tích cực hơn, pH chịu trách nhiệm cao hơn so với các bị cáo khác trong cùng nhóm đồng phạm. Khi quyết định hình phạt hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ cụ thể của từng bị cáo và xem xét các yếu tố, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để áp dụng đối với từng bị cáo.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Lê Năng T đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Các bị cáo còn lại không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tất cả các bị cáo đều thành khẩn khai báo và sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Lê Năng T, Đàm Văn C, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G, Bùi Văn C, Lê Văn D, Lê Bá Đ đều ủng hộ tiền cho địa phương để phòng chống đại dịch Covid, bị cáo Lê Bá Đ còn có ông bà là người có công với cách mạng nên các bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS. HĐXX sẽ giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật.

[6]. Về hình phạt:

Bị cáo Lê Năng T đã có tiền án, Ngày 21/9/ 2018, bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 36 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nay lại tái phạm nên phải chịu áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS. Bị cáo cũng đồng thời có nhân thân xấu, Ngày 10/8/ 2010, bị tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa Đồng Nai xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy (đã chấp hành xong), nên phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, Bị cáo Lê Năng T, có 02 tiền án: Ngày 28/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 39 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích và Ngày 20/9/2016 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh hóa xử phúc thẩm 05 tháng tù giam về tội đánh bạc do bị cáo kháng cáo Bản án ngày 19/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện T Thanh Hóa. Do đó bị cáo phải chịu thêm tình tiết định khung hình phạt tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản 2 điều 318 BLHS.

Các bị cáo có tiền án và đối với các bị cáo Lê Xuân H, Đàm Văn C có nhân thân xấu, nên cần xử phạt các bị cáo Lê Năng T, Lê Năng T, Lê Xuân H, và Đàm Văn C, bằng hình phạt tù, bắt cách ly ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa C. Tuy nhiên xét thấy đối với các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo, sớm trở thành Công D có ích cho xã hội. Thời gian các bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam được tính vào thời gian chấp hành hình phạt đối với các bị cáo.

Các bị cáo Bùi Văn C Lê Bá Đ, Lê Thế A, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G và Lê Văn D có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và không còn nguy hiểm cho xã hội nên không cần thiết phải cách ly xã hội đối với các bị cáo. HĐXX áp dụng điều 65 BLHS cho các bị cáo được hưởng án treo cũng đủ điều kiện giáo dục các bị cáo trở thành Công D tốt có ích cho xã hội. Bị cáo Bùi Văn C hịện đang tạm giam nhưng không bị phạt tù giam nên trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa, ngay sau khi tuyên án.

[7] Tang vật thu giữ gồm:

- 01(một), kiếm tự chế, cán làm bằng đoạn tuýp sắt hình trụ, dài 38cm, đường kính 2,5cm, thân kiếm bằng kim loại dài 60cm, chỗ rộng nhất 3cm, đầu nhọn, một cạnh sắc.

- 01 (một) bao kiếm bằng gỗ, màu đen dài 60cm, rộng 04 cm. Hai đầu bao buộc dạng dây mây, đoạn giữa buộc dây vải và dây nhựa màu trắng.

- 01 (một) chiếc Cào vét bằng kim loại, cán bằng tre dài 138cm - 01 (một) chiếc xẻng bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre.

- 01 (một) cuốc bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre dài 145cm - 01 (một) đoạn ông sắt dạng trụ tròn dài 99cm, đường kính 2,7cm. Mặt ngoài có nhiều vết móp méo kim loại và bám dính chất màu đen.

- 01(một) đoạn gậy bằng kim loại (dạng gậy bóng chày) màu đen, trên thân có dòng chữ “Bát” gậy có chiều dài 70,5cm, đường kính một đầu 2,5cm, đầu còn lại đường kính 5cm.

- 01(một) kiếm tự chế, cán bằng gỗ được quấn băng dính màu đên và trắng dài 22,8cm, đường kính 02cm; thân kiếm bằng kim loại dài 74cm, rộng 03cm, đầu nhọn, một cạnh sắc.

Đây là công cụ các bị cáo sử dụng phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Renno 5 màu đen, thu của bị cáo Lê Năng T. đã qua sử dụng. Số Imei1: 865545052919170 gắn thẻ sim có số thuê bao 0966.775.597, bị cáo T sử dụng liên lạc để phạm tội nên là Công cụ phạm tội, do đó tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[8] Về các tình tiết liên quan đến vụ án và trách nhiệm D sự:

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Siurius màu đen, xanh, biển kiểm soát 98E1-444.24 do Lê Năng T sử dụng và chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu trắng, biển kiểm 36B5-191.02 mà Lê Bá Đ sử dụng khi xảy ra vụ án. Quá trình điều tra xác định hai chiếc xe trên, chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1991, trú tại khu 5, thị trấn T cho T, Đ mượn nH không biết mục đích sử dụng nên cơ quan điều tra không thu giữ là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Siurius, màu trắng, biển kiểm soát 36D1-469.68, mà Lê Xuân H sử dụng. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là bà Lê Thị Khoa (mẹ đẻ H).Việc H tự lấy xe sử dụng bà Khoa không biết nên cơ quan điều tra không thu giữ là đúng quy định của pháp luật.

Đối với thương tích của các bị cáo Lê Năng T, Đàm Văn C, Lê Đình Đ đã bị thương trong quá trình xô xát, do thương tích nhẹ nên các bị cáo không yêu cầu xử lý về hình sự, không yêu cầu bồi thường và từ chối giám định thương tích nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo: Lê Năng T, Lê Thế A, Lê Năng T, Đàm Văn C, Lê Xuân H, Lê Bá Đ, Bùi Văn C, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G và Lê Văn D phạm tội : "Gây rối trật tự Công cộng";

- Căn cứ vào: Điểm b, e khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo: Lê Năng T;

- Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo: Lê Năng T;

- Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51; Bộ luật hình sự đối với các bị cáo: Lê Xuân H, Đàm Văn C;

- Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 điều 318; Điều 17; Điều 58; Điểm s khoản 1, 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo: Lê Bá Đ, Lê Thế A, Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G và Lê Văn D và Bùi Văn C;

- Xử phạt: Bị cáo Lê Năng T (Bút Lây) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/8/2021.

- Xử phạt Bị cáo Lê Thế A 33 (ba mươi ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (năm) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Năng T 32 (ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/8/2021.

- Xử phạt: Bị cáo Đàm Văn C 29 (hai mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/8/2021.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân H 28 (hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/8/2021.

- Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn C 27 (hai mươi bảy) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 54 (năm mươi tư) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Tuyên trả tự do cho bị cáo Bùi Văn C tại phiên tòa ngay sau khi tuyên án.

- Xử phạt Bị cáo Lê Bá Đ 26 (hai mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 52 (năm mươi hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt Bị cáo Lê Đình Đ 26 (hai mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 52 (năm mươi hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt Bị cáo Nguyễn Văn G 25 (hai mươi lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 50 (năm mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt Bị cáo Lê Văn D 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48(bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Lê Bá Đ, Lê Thế A cho UBND xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Giao bị cáo Lê Đình Đ cho UBND xã Yên Hùng, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; Giao bị cáo Nguyễn Văn G cho UBND xã Xuân H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Giao bị cáo Bùi Văn C cho UBND xã Quảng Phú, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Giao bị cáo Lê Văn D cho UBND xã Thọ D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó pH chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó pH chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm:

- 01(một), kiếm tự chế, cán làm bằng đoạn tuýp sắt hình trụ, dài 38cm, đường kính 2,5cm, thân kiếm bằng kim loại dài 60cm, chỗ rộng nhất 3cm, đầu nhọn, một cạnh sắc.

- 01 (một) bao kiếm bằng gỗ, màu đen dài 60cm, rộng 04 cm. Hai đầu bao buộc dạng dây mây, đoạn giữa buộc dây vải và dây nhựa màu trắng.

- 01 (một) chiếc Cào vét bằng kim loại, cán bằng tre dài 138cm - 01 (một) chiếc xẻng bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre.

- 01 (một) cuốc bằng kim loại đã qua sử dụng, cán bằng tre dài 145cm - 01 (một) đoạn ông sắt dạng trụ tròn dài 99cm, đường kính 2,7cm. Mặt ngoài có nhiều vết móp méo kim loại và bám dính chất màu đen.

- 01(một) đoạn gậy bằng kim loại (dạng gậy bóng chày) màu đen, trên thân có dòng chữ “Bát” gậy có chiều dài 70,5cm, đường kính một đầu 2,5cm, đầu còn lại đường kính 5cm.

- 01(một) kiếm tự chế, cán bằng gỗ được quấn băng dính màu đên và trắng dài 22,8cm, đường kính 02cm; thân kiếm bằng kim loại dài 74cm, rộng 03cm, đầu nhọn, một cạnh sắc.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Renno 5 màu đen, đã qua sở dụng. Số Imei1: 865545052919170 gắn thẻ sim có số thuê bao 0966.775.597.

Các vật chứng trên hiện đang được quản lý tại Chi cục thi hành án D sự huyện T theo Biên bản về việc giao vật chứng, tài sản số: 30 ngày 14/ 01/2022.

- Về án phí : Căn cứ khoản 2 điều 136 BLTTHS; Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của UBTVQH;

Buộc các bị cáo Lê Năng T, Lê Thế A, Lê Năng T, Đàm Văn C, Lê Xuân H, Lê Bá Đ, Bùi Văn C, , Lê Đình Đ, Nguyễn Văn G và Lê Văn D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 08/2022/HS-ST

Số hiệu:08/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về