TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 99/2021/HS-PT NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 10/3/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 98/2021/TLPT-HS ngày 5/4/2021, đối với bị cáo Nguyễn Thị B, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị B đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HS-ST ngày 26/2/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thị B, sinh năm 1967. Tên gọi khác: Không.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Lớp 4/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Con ông: Nguyễn Văn L8; Con bà: Nguyễn Thị L9 (đều đã chết). Gia đình bị cáo có 09 anh em ruột, bản thân là con thứ 07 trong gia đình. Chồng không có. Bị cáo có 01 con, sinh năm 1994.
Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 07/QĐ -XPHC gày 06/01/2017 của Công an huyện Lục Nam đã xử phạt hành chính, hình thức phạt tiền 6.500.000 đồng về hành vi chứa chấp đánh bạc.
- Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 07/9/2020 đến ngày 16/9/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo đang tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa).
Trong vụ án còn có 05 bị cáo khác không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 40 phút ngày 07/9/2020, tổ công tác Công an xã C, huyện L phát hiện bắt quả tang tại phòng khách nhà ở của Nguyễn Văn C, sinh năm 1975 ở thôn N, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang các đối tượng Nguyễn Thị B, sinh năm 1967; Nguyễn Văn H, sinh năm 1981; Phan Văn B, sinh năm 1978; Nguyễn Văn M, sinh năm 1982 cùng ở thôn N, xã C, huyện L và Trần Văn S, sinh năm 1988 ở thôn S, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang đang có hành vi đánh bạc, hình thức đánh sâm bằng bộ bài tú lơ khơ 52 quân.
Vật chứng thu giữ gồm: Số tiền 5.750.000 đồng trên nền nhà tại vị trí các đối tượng ngồi đánh bạc; 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài có một mặt màu xanh; 01 thảm trải ghế nhiều màu sắc và có hình bông hoa trên bề mặt.
Kiểm tra thu giữ trên người: Trần Văn S 01 điện thoại nhãn hiệu Vivo, màu đen có số IMEI1: 862449040693299; EMEI2: 862449040693281; Phan Văn B số tiền 4.150.000 đồng và 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 plus màu bạc, có số IMEI: 354442063718429; Nguyễn Văn M số tiền 50.000 đồng; Nguyễn Thị B 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 màu trắng có số IMEI (khe 2): 359930074967048; EMEI (khe 1): 359929074967040; Nguyễn Văn H 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng có số EMEI: 353335071786464.
Ngoài ra còn tạm giữ: 01 xe máy Dream, nhãn hiệu Honda, BKS 29D2-177. 08 của Phan Văn B; 01 xe máy CubJapan, BKS 98AE-015.37 của Nguyễn Văn H (BL 168-171).
Cùng ngày Nguyễn Văn C (là chủ nhà) đến Công an huyện Lục Nam đầu thú khai nhận là người trực tiếp chuẩn bị bộ bài tú lơ khơ, đồng ý cho các đối tượng đánh bạc tại nhà (BL 374-375).
Tại Cơ quan điều tra các đối tượng khai nhận như sau: Khoảng hơn 15 giờ ngày 07/9/2020, Nguyễn Thị B, Nguyễn Văn H, Phan Văn B, Nguyễn Văn M, đều ở thôn N, xã C, huyện L và Trần Văn S, ở thôn S, xã B, huyện L đến nhà Nguyễn Văn C, ở thôn N, xã C, huyện L chơi. Khi Nguyễn Thị B, H, Phan Văn B, M và S ngồi chơi, uống nước thì cùng rủ nhau đánh bạc, hình thức đánh sâm tại phòng khách nhà C, C đồng ý. C trực tiếp lấy 01 tấm thảm trải ghế trải xuống nền nhà và lấy 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân để trên tấm thảm cho mọi người đánh bạc.
Trước khi đánh bạc do không có tiền nên H hỏi vay C số tiền 2.600.000 đồng, Phạn Văn B hỏi vay C số tiền 2.000.000 đồng, M hỏi vay C số tiền 3.000.000 đồng để đánh bạc, C đồng ý. Sau đó C lấy tiền cho H vay 2.600.000 đồng, cho Phan Văn B vay số tiền 1.000.000 đồng và cho M vay số tiền 2.000.000 đồng. Sau khi vay được tiền của C thì H, B, M để tiền trước mặt rồi cùng Nguyễn Thị B và Trần Văn S bắt đầu tham gia đánh bạc.
Cách thức chơi như sau: Người chia bài lấy bộ bài Tú lơ khơ gồm 52 quân, chia lần lượt cho những người chơi mỗi người 10 (mười) quân bài. Số bài còn lại sau khi chia cho 5 người được đặt úp xuống chiếu. Sau khi chia bài xong, từng người sẽ lên bài và bắt đầu chơi. Khi lên bài, bài ai có các quân bài tạo thành dây (như 4,5,6,7..), bộ ba (như KKK, QQQ...), bộ tứ (như 9999, 8888...) không cần đồng chất mà không thừa quân bài nào thì người chơi được bài “Sâm” và hạ bài, những người chơi còn lại phải trả cho người có ván bài “Sâm” số tiền là 800.000đ. Trường hợp người chơi đều có bài “Sâm” thì thứ tự bài “Sâm” lớn hơn và được thu tiền của những người còn lại tính từ phải qua trái bắt đầu từ người được đánh bài. Nếu sau khi những người chơi lên bài không ai có bài “Sâm” thì người chia bài sẽ được đánh trước một quân bài, dây, bộ ba hay bộ tứ bất kỳ, sau đó những người chơi khác sẽ lần lượt đỡ (chặt) bài theo thứ tự từ phải qua trái (quân bài to bắt quân bài bé không cần đồng chất), trong đánh bài “Sâm” quân 2 là quân to nhất, quân 3 là quân bé nhất. Cứ đánh như vậy ai hết bài trước sẽ thắng những người chơi còn lại phải trả tiền cho người thắng tính theo số lá bài còn lại trên tay người chơi, mỗi lá bài là 10.000 đồng/1 lá bài, người chơi không đánh được quân bài nào mất 150.000 đồng.
Đến khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày, khi H chia bài cho mọi người xong rồi lên bài thì M là người được đánh đầu tiên, M rút bài trên tay hô đánh "đôi 5" thì đúng lúc này tổ công tác Công an xã C, huyện L kiểm tra bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.
Về số tiền đem theo và số tiền sử dụng vào việc đánh bạc các đối tượng khai nhận như sau:
- Nguyễn Thị B khai trước khi tham gia đánh bạc có số tiền 50.000 đồng dùng để đánh bạc, B để xuống trước mặt nơi ngồi đánh bạc đã bị thu giữ.
- Trần Văn S khai trước khi tham gia đánh bạc có số tiền 100.000 đồng để dùng để đánh bạc, khi bị bắt tiền để dưới nền nhà nơi ngồi đánh bạc đã bị thu giữ.
- Nguyễn Văn H khai trước khi tham gia đánh bạc vay của Nguyễn Văn C số tiền 2.600.000 đồng dùng để đánh bạc, khi bị bắt tiền để dưới nền nhà nơi ngồi đánh bạc đã bị thu giữ.
- Phan Văn B khai trước khi tham gia đánh bạc B vay của Nguyễn Văn C số tiền 2.000.000 đồng mục đích để đánh bạc, C đưa trước cho B số tiền 1.000.000 đồng, B để dưới nền nhà nơi ngồi đánh bạc đã bị thu giữ. Số tiền 4.150.000 đồng B mang theo thu giữ trên người khi bắt quả tang B khai không dùng vào mục đích đánh bạc.
- Nguyễn Văn M khai trước khi tham gia đánh bạc M vay của Nguyễn Văn C số tiền 3.000.000 đồng mục đích để đánh bạc, C đưa trước cho M số tiền 2.000.000 đồng, M để dưới nền nhà nơi ngồi đánh bạc đã bị thu giữ (còn 1.000.000 đồng C chưa đưa). Số tiền 50.000 đồng thu giữ trên người khi bắt quả tang, M khai không dùng vào mục đích đánh bạc.
Như vậy, tổng số tiền các đối tượng khai nhận sử dụng vào mục đích đánh bạc là 7.750.000 đồng.
Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 plus màu bạc, có số IMEI: 354442063718429 và 01 xe máy Dream, nhãn hiệu Honda, BKS 29D2-177.08 của Phan Văn B; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 màu trắng có số IMEI (khe 2): 359930074967048; EMEI (khe 1): 359929074967040 của Nguyễn Thị B; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng có số EMEI: 353335071786464 và 01 xe máy CubJapan, BKS 98AE-015.37 của Nguyễn Văn H thu giữ khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu.
Về vật chứng: Số tiền 9.950.000 đồng; 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài có một mặt màu xanh; 01 thảm trải ghế có nhiều màu sắc và có hình bông hoa trên bề mặt; 01 điện thoại nhãn hiệu ViVo, màu đen có số IMEI1: 862449040693299; EMEI2: 862449040693281, Cơ quan điều tra chuyển xử lý cùng vụ án.
Tại Cơ quan điều tra các đối tượng đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân và đồng phạm như đã nêu ở trên.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 18/2021/HS-ST ngày 26/2/2021 của Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo: Trần Văn S, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn M, Phan Văn B, Nguyễn Thị B và Nguyễn Văn C phạm vào “Tội Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật hình sự.
Nguyễn Thị B: 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Nhưng được trừ thời gian tạm giữ bị cáo từ ngày 07/9/2020 đến ngày 16/9/2020, tổng cộng 09 ngày.
Phạt tiền bị cáo 10 (mười) triệu đồng sung công quĩ Nhà nước.
Ngoài ra bản án còn tuyên xử phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/ 3 /2021, bị cáo Nguyễn Thị B kháng cáo nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo;
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị B thay đổi yêu cầu kháng cáo bị cáo chỉ kháng cáo xin được hưởng án treo và bị cáo trình bầy bị cáo thấy việc làm của bị cáo là sai vi phạm pháp luật bản thân bị cáo đang nuôi con bị bệnh tim bẩm sinh sau khi tòa án sơ thẩm xử bị cáo đã nôp tiện phạt và tiền án phí bị cáo mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và tại phiên tòa bị cáo có tình tiết mới là nộp biên lai tiền phạt và án phí đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị B, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Thị B tranh luận: Bị cáo B không có ý kiến gì tranh luận Bị cáo Nguyễn Thị B nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của bị cáo là sai vi phạm pháp luật và bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị B đã được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị B thì thấy: Khoảng hơn 15 giờ ngày 07/9/2020, Nguyễn Văn C ở thôn N, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang không tham gia đánh bạc nhưng C chuẩn bị bộ bài tú lơ khơ, tấm thảm trải ghế và cho vay tiền để các đối tượng đánh bạc tại phòng khách nhà ở của mình. Đến khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày, khi các đối tượng Nguyễn Thị B, Nguyễn Văn H, Phan Văn B, Nguyễn Văn M và Trần Văn S đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh sâm được thua bằng tiền thì bị tổ công tác Công an xã C, huyện L kiểm tra bắt quả tang.Tổng cộng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 5.750.000 đồng.
Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Thị B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị B về tội “ Đánh bạc”; là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị B thì thấy: Tại phiên tòa, bị cáo chỉ kháng cáo xin được hưởng án treo, nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm không đặt ra giải quyết.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định bị cáo Nguyễn Thị B không có tình tiếp tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, là có căn cứ.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
Bị cáo Nguyễn Thị B: Đã bị Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 07/QĐ-XPHC gày 06/01/2017, Công an huyện Lục Nam xử phạt hành chính, hình thức phạt tiền 6.500.000 đồng về hành vi chứa chấp đánh bạc. Quyết định đã được giao cho bị cáo, đến nay bị cáo chưa nộp tiền phạt và vẫn cư trú tại địa phương. Cơ quan xử phạt cũng không tổ chức thi hành quyết định. Căn cứ Điều 73 và 74 của Luật xử lý vi phạm hành chính thì đã hết thời hiệu thi hành. Do đó cần xác định đây là nhân thân bị cáo.
Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị công an huyện Lục Nam xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chứa chấp đánh bạc. Bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi bị bắt bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi vi phạm của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm i,s khoản 1 Điều 51. Tại cấp phúc thẩm bị cáo nộp biên lai nộp tiền phạt bổ sung và án phí. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới mà bị cáo được hưởng tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi ở rõ ràng nên đủ điều kiện cho hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 15/5/2018. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo theo như đề nghị của Kiểm sát là phù hợp.
[4].Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm g, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Nguyễn Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật TTHS,
[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị B sửa bản án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58, Điều 65 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B: 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo qui định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo qui định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[2].Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm g, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Nguyễn Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Xác nhận: Bị cáo Nguyễn Thị B đã nộp 10.200.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo biên lai số AA/2016/0004138 ngày 11/5/2021.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 99/2021/HS-PT
Số hiệu: | 99/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về