Bản án về tội đánh bạc số 85/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/HSST ngày 24 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa ra vụ án xét xử số 74/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Vĩnh N, sinh năm 1987, tại tỉnh Tiền Giang.

Tên thường gọi: không có.

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp QC, xã NQ, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang.

Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không Nghề nghiệp: làm thuê. Trình độ học vấn: 09/12. Giới tính: Nam Con ông: Trần Vĩnh T, sinh năm 1957 (đã chết) và bà: Lê Thị H, sinh năm 1959;

Vợ: Đoàn Thanh T1, sinh năm 1989; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2015. Tiền án: Không.

Tiền sự: 01 lần, Ngày 17/5/2021 bị Công an thị xã Cai Lậy xử phạt 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi đánh bạc theo Quyết định số 1028/QĐ-XPHC. Chấp hành xong hình phạt ngày 19/5/2021.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Nguyễn Công D, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp HH, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

- Châu Văn L, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp HH, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

- Nguyễn Công L1, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp HH, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt).

- Huỳnh Phi N1, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

- Võ Văn C, sinh năm 1968. Địa chỉ: Ấp HH, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt).

- Phan Thanh T2, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp T, xã ĐH, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

- Đoàn Thanh T1, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp QC, xã NQ, thị xã CL, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trần Vĩnh N có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1028/QĐ-XPHC ngày 17/5/2021 của Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, đã chấp hành xong hình phạt ngày 19/5/2021 nhưng chưa hết thời hạn được xem là chưa bị xử lý hành chính.

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 21/01/2022 Công an xã Hữu Đạo, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang tiến hành kiểm tra tại nhà anh Nguyễn Công D, sinh năm 1980, tọa lạc ấp HH, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang, phát hiện bị cáo Trần Vĩnh N, Nguyễn Công L1, Châu Văn L, Huỳnh Phi N1 và Phan Thanh T2 tụ tập đánh bài thắng thua bằng tiền bằng hình thức chơi bài cào 03 lá, mỗi tụ chia 03 lá bài, nếu tụ bài nào lớn sẽ thắng, mức đặt cược mỗi ván của mỗi tụ bài là 10.000 đồng.

Kết quả điều tra đã xác định số tiền của từng đối tượng dùng đánh bạc như sau: Bị cáo Trần Vĩnh N: 270.000 (Hai trăm bảy mươi nghìn) đồng, Nguyễn Công L1: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, Võ Văn C: 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, Châu Văn L: 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, Huỳnh Phi N1: 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng, Phan Thanh T2: 70.000 (Bảy mươi nghìn) đồng * Kết luận giám định số 353/KL-KTHS-Đ2 ngày 05/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang, kết luận: 04 (bốn) tờ tiền Polymer Việt Nam mệnh giá 10.000 đồng, có số seri ZA15951366, GP17316702, LE07674866, PK14989074 là tiền thật.

* Thu giữ, xử lý vật chứng, đồ vật như sau:

- 52 (Năm mươi hai) lá bài Tây;

- Tiền Việt Nam: 40.000 đồng (Bốn mươi nghìn đồng) - 01 (một) xe và giấy đăng ký xe mô tô hai bánh biển số 63B2-697.09, do Đoàn Thanh T1, sinh năm: 1989, ĐKTT: Ấp Qúy Chánh, xã Nhị Qúy, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đứng tên sở hữu.

Tại bản Cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 22/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang truy tố bị cáo Trần Vĩnh N về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Vĩnh N về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Vĩnh N phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo; Nghị quyết số 01/2022/NQ- HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Xử phạt bị cáo Trần Vĩnh N từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng.

- Đối với vật chứng, đề nghị xử lý như sau:

+ Tịch thu tiêu hủy 52 (Năm mươi hai) lá bài Tây + Tịch thu sung quỹ nhà nước 40.000 đồng (Bốn mươi nghìn đồng) Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo không trình bày lời bào chữa. Nói lời nói sau cùng bị cáo trình bày biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo. Xét thấy:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Vĩnh N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội trên của bị cáo cơ bản đã phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận ngày 21/01/2022 tại nhà anh Nguyễn Công D, sinh năm 1980, tọa lạc ấp HH, xã HĐ, huyện CT, tỉnh Tiền Giang, bị cáo Trần Vĩnh N có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1028/QĐ-XPHC ngày 17/5/2021 của Công an thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, đã chấp hành xong hình phạt ngày 19/5/2021 nhưng chưa hết thời hạn được xem là chưa bị xử lý hành chính lại có hành vi đánh bài thắng thua bằng tiền bằng hình thức chơi bài cào 03 lá. Vì vậy đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Vĩnh N phạm tội “Đánh bạc” theo qui định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét thấy, bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ sức khoẻ và khả năng nhận thức về hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm pháp luật. Thế nhưng, chỉ vì muốn thõa mãn nhu cầu cá nhân mà bị cáo có hành vị đánh bạc trái phép. Điều đó cho thấy bị cáo là người có ý thức xem thường pháp luật. Hành vi phạm tội trên đây của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, đây là một loại tệ nạn xã hội là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác, cũng là nguyên nhân ảnh hưởng cuộc sống, hạnh phúc của gia đình. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung cho các đối tượng khác.

Tuy nhiên, bị cáo Nam có hành vi đánh bạc nhưng số tiền dùng để đánh bạc là 270.000đồng, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có người thân là người có công với cách mạng; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; mặt khác theo xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Nhị Quý, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang thì bị cáo Nam có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi con nhỏ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét thấy không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Đối với Nguyễn Công D có hành vi cho các con bạc sử dụng nhà mình để đánh bạc thắng thua bằng tiền; Nguyễn Công L1, Võ Văn C, Châu Văn L, Huỳnh Phi N1, Phan Thanh T2 có hành vi tham gia đánh bạc, tuy nhiên số tiền đánh bạc chưa đủ truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Châu Thành đã xử phạt vi phạm hành chính các hành vi trên.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ 52 (Năm mươi hai) lá bài Tây liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Số tiền 40.000 đồng (Bốn mươi nghìn đồng) liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ.

+ Đối với 01 (một) xe và giấy đăng ký xe mô tô hai bánh biển số 63B2- 697.09, do Đoàn Thanh T1, sinh năm: 1989, ĐKTT: Ấp Qúy Chánh, xã Nhị Qúy, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đứng tên sở hữu. Kết quả xác minh chị Tuyền không biết việc bị cáo Nam mượn xe để đi đánh bạc nên ngày 14/02/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã trả xe 63B2-697.09 cho chị Tuyền là phù hợp.

[6] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

* Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về Hình phạt - Tuyên bố bị cáo Trần Vĩnh N phạm tội “Đánh bạc” - Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo; Nghị quyết số 01/2022/NQ- HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Phạt bị cáo Trần Vĩnh N 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Nhị Quý, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 52 (Năm mươi hai) lá bài Tây.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước 40.000 đồng (Bốn mươi nghìn đồng).

(Các vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/7/2022)

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Trần Vĩnh N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 85/2022/HS-ST

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về