TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 213/2022/HS-PT NGÀY 21/12/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 21 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 214/TLPT-HS ngày 21 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo Phạm Văn B , Võ Văn p, Tô Thị Ngọc T , Vương B1 do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2022/HS-ST ngày 14 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân Huyện Q , tỉnh Tây Ninh.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Phạm Văn B , sinh năm 1956, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: Ấp Thuận Hòa, xã Truông Mít, Huyện Q , tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Không có; Trình độ học vấn: 5/12. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Phạm Văn Đùm, sinh năm 1930 (đã chết) và bà Lê Thị Liền, sinh năm 1931 (đã chết). Có vợ tên Nguyễn Thị Đẹp, sinh năm 1956 (đã chết). Con: Có 07 người, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1993. Tiền án, tiền sự: Không có.
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 22/LC- CSĐT ngày 16-02-2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an Huyện Q , từ tháng 02-2022 đến tháng 5-2022;
Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
2. Võ Văn p, sinh năm 1972, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: Ấp Thuận Bình, xã Truông Mít, Huyện Q , tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không biết chữ. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Cao đài. Con ông Võ Văn Khánh (đã chết) và bà Võ Thị Cưng (đã chết). Có vợ tên Lê Thị T , sinh năm 1972 (đã chết). Con: Có 01 người, sinh năm 1992. Tiền sự: Không có.
Tiền án: Bản án hình sự phúc thẩm số 90/PTHS ngày 06/7/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh căn cứ khoản 1 Điều 249; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt Võ Văn p 15.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc”, chưa chấp hành.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2022, tạm giam ngày 16/02/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Q ; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh số: 06/VKS- DMC ngày 26-02-2022 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Q , từ ngày 25-02-2022 đến ngày 16-5-2022;
Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
3. Tô Thị Ngọc T , sinh năm: 1972, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú: Ấp Thuận Tân, xã Truông Mít, Huyện Q , tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 02/12. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Cao đài. Con ông Tô Văn Quì (đã chết) và bà Phạm Thị Nĩa (đã chết). Có chồng tên Ngô Trung Hiếu, sinh năm 1970. Con: Có 02 người, lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2006. Tiền sự: Không có.
Tiền án: Bản án số 135/HSPT ngày 11/12/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh áp dụng khoản 1 Điều 249; Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt Tô Thị Ngọc T 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Tổ chức đánh bạc”; áp dụng khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự phạt bổ sung số tiền 8.000.000 đồng, chưa chấp hành hình phạt bổ sung;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Q ; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 18/LC-CSĐT ngày 16-02-2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an Huyện Q , từ tháng 02-2022 đến tháng 5-2022;
Bị cáo tại ngoại. (có mặt)
4. Vương B, sinh năm: 1988, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú hiện nay: Ấp 1, xã Bàu Đồn, huyện Gd, tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 6/12. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Cao đài. Con ông Vương Văn Chương, sinh năm 1962 và bà Võ Thị Mai Trang, sinh năm 1967. Vợ, con: Chưa có.
Nhân thân: Ngày 21/4/2008, bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”, đã xóa án tích. Tiền án, tiền sự: Không có.
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 19/LC- CSĐT ngày 16-02-2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an Huyện Q , từ tháng 02-2022 đến tháng 5-2022;
Bị cáo tại ngoại, vắng mặt tại phiên toà.
Trong vụ án này còn có các bị cáo: Nguyễn Hoài Đức, Nguyễn Huy Hoàng, Đặng Văn Quang, Phạm Thị Anh Lê, Phạm Thị Thu Hương, Lê Hoàng Nhung, Nguyễn Hoàng Thoại, Trần Thủy Tiên, Võ Hoài Ân, Phạm Văn Thêm, Phạm Hiếu Thảo, Đặng Thị Khoa, Lê Thị Mốt, Nguyễn Thị Kim Nguyên, Nguyễn Thanh Phong, Phạm Lâm Ngân, Nguyễn Văn Thanh, Trần Thanh Phong, Nguyễn Hoài Ân, Trần Hồng Khẩn, Đinh Thị Kim Nguyên và Dương Hoài Bảo. Không có kháng cáo, kháng nghị; Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng đầu tháng 02 năm 2022, đối tượng Vương Văn Hây (tên gọi khác Khiêm), đối tượng Diện, đối tượng Thanh (chưa rõ họ tên địa chỉ cụ thể) tổ chức đánh bạc bằng hình thức mở sòng lắc tài xỉu thắng thua bằng tiền tại các quán cà phê thuộc khu vực xã Truông Mít, huyện Q , tỉnh Tây Ninh để thu tiền ca mỗi giờ là 500.000 đồng. Để tránh bị lực lượng Công an p hiện, Hây, Diện và Thanh thuê Nguyễn Huy Hoàng và Nguyễn Hoài Đức thu tiền ca và canh gác, cảnh giới lực lượng Công an cho sòng bạc hoạt động trả tiền công mỗi ngày từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng.
Vào khoảng 11 giờ ngày 07-02-2022 (nhằm ngày mùng 7 Tết Nguyên đán), Hây, Diện và Thanh chọn địa điểm tại Miếu Suối Nhánh thuộc khu vực ấp Thuận Tân, xã Truông Mít, huyện Q , tỉnh Tây Ninh để tổ chức 03 sòng chơi tài xỉu và phân công nhiệm vụ cho Hoàng, Đức thu tiền ca và canh gác, cảnh giới lực lượng Công an cho sòng bạc hoạt động. Đến khoảng 18 giờ 15 phút cùng ngày bị bắt quả tang, Hây, Diện và Thanh đã thu tiền ca được 2.500.000 đồng và cả 03 đối tượng đã bỏ trốn. Thời điểm bắt quả tang tại địa điểm có 3 sòng bạc các bị cáo thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc và tham gia đánh bạc tại các sòng bạc cụ thể gồm:
+ Hành vi tổ chức đánh bạc của Nguyễn Hoài Đức: Ngày 07-02-2022, Đức gặp Vương Văn Hây, đối tượng Diện, đối tượng Thanh (chưa rõ họ tên địa chỉ cụ thể) thuê Đức và Nguyễn Huy Hoàng làm nhiệm vụ canh gác, cảnh giới lực lượng Công an tại sòng bạc và thu tiền ca của những người làm cái lắc tài xỉu. Sau đó, Đức đến địa điểm tổ chức đánh bạc thu tiền ca sòng tài xỉu do Phạm Văn B làm cái là 500.000 đồng; thu tiền ca sòng tài xỉu do đối tượng Thanh, đối tượng Ly và Đinh Thị Kim Nguyên hùn vốn làm cái là 500.000 đồng và thu tiền ca sòng tài xỉu do Trần Văn Ý làm cái là 500.000 đồng. Đức đưa tiền ca thu được lại cho Thanh, tổng cộng là 1.500.000 đồng và Thanh trả tiền công cho Đức là 400.000 đồng. Sau đó, Đức mua thuốc hút và nước uống hết 100.000 đồng, còn lại 300.000 đồng Đức sử dụng đánh bạc tại sòng tài xỉu Đinh Thị Kim Nguyên làm cái. Đức tham gia đặt cược 02 ván, mỗi ván 100.000 đồng, kết quả thua hết 200.000 đồng. Sau đó thì bị bắt quả tang, Đức bị tạm giữ 100.000 đồng.
+ Nguyễn Huy Hoàng: Vào ngày 02-02-2022, Vương Văn Hây, đối tượng Diện, đối tượng Thanh thuê Hoàng làm nhiệm vụ thu tiền ca, mỗi ngày trả tiền công cho Hoàng từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng. Ngày 07-02-2022, Hoàng đến Miếu Suối Nhánh làm nhiệm vụ canh gác, cảnh giới lực lượng Công an tại sòng bạc và thu tiền ca do Phạm Văn B làm cái là 500.000 đồng và thu tiền ca do Trần Văn Ý làm cái là 500.000 đồng. Sau đó, Hoàng đưa tiền ca thu được lại cho Diện, tổng cộng là 1.000.000 đồng; Hoàng chưa nhận tiền công.
Hành vi đánh bạc sòng thứ nhất: Khi Bừng làm cái lắc tài xỉu có những người tham gia đặt tiền cược gồm: Lê Hoàng Nhung, Nguyễn Hoàng Thoại, Nguyễn Thị Kim Nguyên, Phạm Hiếu Thảo, Lê Thị Mốt, Võ Văn p, Tô Thị Ngọc T , Võ Hoài Ân, Trần Thanh Phong, Nguyễn Thanh Phong, Vương B, Phạm Văn Thêm, Phạm Lâm Ngân, Trần Thủy Tiên, Nguyễn Văn Thanh, Đặng Thị Khoa.
Hành vi của các bị cáo khác cụ thể như sau:
1. Hành vi của Phạm Văn B : Ngày 07-02-2022, bị cáo Bừng mang theo bộ dụng cụ lắc tài xỉu, 01 tấm manh có ghi chữ “tài” và “xỉu” và số tiền là 10.000.000 đồng để làm vốn làm cái lắc tài xỉu. Khi đến Miếu Suối Nhánh, Bừng lấy bộ dụng cụ lắc tài xỉu ra làm cái lắc và đưa cho Đặng Văn Quang số tiền 7.000.000 đồng để phụ giúp bị cáo Bừng chung chi tiền thắng, thua; Phạm Thị Thu Hương là con gái của bị cáo Bừng phụ giúp quan sát người chơi có gian lận hay không và phụ việc chung chi tiền thắng, thua cho người chơi. Sau đó, bị cáo Bừng làm cái lắc tài xỉu cho những người tham gia đặt tiền cược gồm: Lê Hoàng Nhung, Nguyễn Hoàng Thoại, Nguyễn Thị Kim Nguyên, Phạm Hiếu Thảo, Lê Thị Mốt, Võ Văn p, Tô Thị Ngọc T , Võ Hoài Ân, Trần Thanh Phong, Nguyễn Thanh Phong, Vương B, Phạm Văn Thêm, Phạm Lâm Ngân, Trần Thủy Tiên, Nguyễn Văn Thanh, Đặng Thị Khoa và Nguyễn Hoài Ân. Bị cáo Bừng quy định người chơi đặt tiền cược thấp nhất là 50.000 đồng và cao nhất là 1.000.000 đồng, tiền thắng, thua mỗi ván dao động từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Trong quá trình làm cái bị cáo Bừng có đưa tiền xâu cho Nguyễn Hoài Đức, Nguyễn Huy Hoàng. Do bị cáo Bừng làm cái lắc tài xỉu thua nên mượn của Phạm Thị Anh Lê là con gái của Bừng có mặt tại sòng bạc số tiền 3.000.000 đồng để tiếp tục làm vốn làm cái. Sau đó, bị bắt quả tang, Bừng bị tạm giữ số tiền 3.000.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo Bừng sử dụng vào mục đích đánh bạc là 13.000.000 đồng.
2. Hành vi của Đặng Văn Quang: Ngày 06-02-2022, Phạm Văn B điện thoại nhờ Quang vào ngày 07/02/2022 đến Miếu Suối Nhánh để phụ giúp Bừng chung chi tiền thắng, thua cho người chơi tài xỉu do Bừng làm cái và sẽ trả tiền công cho Quang tùy theo thắng, thua nhiều hay ít thì Quang đồng ý. Đến khoảng 11 giờ ngày 07/02/2022, Quang đến Miếu Suối Nhánh thì thấy Bừng lấy bộ dụng cụ lắc tài xỉu ra làm cái lắc nên Quang phụ giúp Bừng chung chi tiền thắng, thua. Sau đó, Bừng đưa cho Quang tiền 7.000.000 đồng và mượn của Lê 3.000.000 đồng để chung chi tiền thắng, thua. Khi sòng bạc đang hoạt động thì bị bắt quả tang, Quang vứt số tiền vốn dùng để đánh bạc tại chiếu bạc và bị tạm giữ 2.500.000 đồng là tiền cá nhân của Quang không sử dụng vào mục đích đánh bạc.
3. Hành vi của Phạm Thị Anh Lê: Lê mang theo số tiền 4.700.000 đồng đi đến Miếu Suối Nhánh thì thấy cha ruột là Phạm Văn B đang làm cái lắc tài xỉu và Đặng Văn Quang đang phụ giúp Bừng chung chi tiền thắng thua cho người chơi. Sau đó, Bừng và Quang thua nên mượn của Lê số tiền 3.000.000 đồng để làm vốn làm cái lắc tài xỉu thì Lê đồng ý đưa cho Bừng và Quang mượn số tiền 3.000.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, Lê bị tạm giữ 1.700.000 đồng là tiền cá nhân không sử dụng vào mục đích đánh bạc.
4. Hành vi của Phạm Thị Thu Hương: Ngày 01-02-2022, Hương về nhà cha ruột là Phạm Văn B để chơi. Sau đó, Bừng nhờ Hương vào ngày 07/02/2022 đến Miếu Suối Nhánh để phụ giúp Bừng quan sát người chơi đặt tiền cược để tránh bị gian lận thì Hương đồng ý. Đến khoảng 11 giờ ngày 07/02/2022, Hương đến Miếu Suối Nhánh thì thấy Phạm Văn B đang làm cái lắc tài xỉu và Đặng Văn Quang đang phụ giúp Bừng chung chi tiền thắng thua cho người chơi. Lúc này, Hương đi xung quanh sòng tài xỉu để quan sát người chơi đặt tiền cược có gian lận hay không. Sau đó, bị bắt quả tang, Hương bị tạm giữ số tiền 9.000.000 đồng là tiền cá nhân không sử dụng vào mục đích đánh bạc.
5. Hành vi phạm tội của Vương B: B1 mang theo 700.000 đồng để làm vốn đánh bạc do Phạm Văn B làm cái. B1 tham gia đặt 02 ván, mỗi ván 200.000 đồng, kết quả thua 400.000 đồng, còn lại 300.000 đồng B1 mua 30 tờ vé số. Sau đó, bị bắt quả tang.
6. Hành vi của Tô Thị Ngọc T : T mang theo số tiền 3.000.000 đồng để làm vốn đánh bạc do Phạm Văn B làm cái. T tham gia đặt 15 ván, mỗi ván đặt từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng, kết quả thua 700.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, T bị tạm giữ 2.300.000 đồng.
7. Hành vi của Võ Văn p: P mang theo 3.300.000 đồng để làm vốn đánh bạc do Phạm Văn B làm cái. P tham gia đặt 13 ván, mỗi ván đặt 100.000 đồng, kết quả thắng được 700.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, P bị tạm giữ 4.000.000 đồng.
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Q , tỉnh Tây Ninh xác định tổng số tiền các bị cáo Phạm Văn B , Đạng Văn Quang, Phạm Thị Anh Lê và đồng phạm tham gia đánh bạc khai nhận tiền sử dụng đánh bạc vào ngày 07-02- 2022 là 117.712.000 đồng (gồm tiền xâu 1.500.000 đồng, trên chiếu bạc 24.200.000 đồng, tiền dùng để đánh bạc 92.012.000 đồng).
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 49/2022/HS-ST ngày 14 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân Huyện Q , tỉnh Tây Ninh, đã xử:
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn B , Vương B, Tô Thị Ngọc T , Võ Văn p phạm tội “Đánh bạc” - Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn B 03 (ba) năm 06 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vương B 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-02 đến ngày 15-02-2022.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tô Thị Ngọc T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-02 đến ngày 15-02-2022.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Văn p 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 07-02 đến ngày 15-02- 2022.
Bản án còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo.
Ngày 17-10-2022 bị cáo Vương B có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Ngày 18-10-2022 bị cáo Võ Văn p có đơn kháng cáo xin được giảm án hoặc phạt hành chính.
Ngày 24-10-2022 bị cáo Phạm Văn B , bị cáo Tô Thị Ngọc T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Bị cáo Bừng xin hưởng án treo vì già bệnh, mong được ở nhà để điều trị; bị cáo T xin được hưởng án treo vì điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn. Bị cáo P xin được giảm án hoặc phạt hành chính vì bản thân ít học, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, hiện nay vợ đã chết và đang nuôi mẹ vợ.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với bị cáo P thời điểm phạm tội chưa chấp hành số tiền phạt 15.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc” lại tiếp tục phạm tội là tái phạm, sau khi bị bắt về hành vi “Đánh bạc” mới thực hiện nghĩa vụ đóng phạt; bị cáo T chưa chấp hành hình phạt bổ sung đối với số tiền 8.000.000 đồng, bị cáo B1 được triệu tập hợp đã hoãn phiên tòa do vắng mặt bị cáo B1, nay lại tiếp tục vắng mặt không lý do không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
Các bị cáo không tranh luận Lời nói sau cùng của bị cáo: Mong Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, các ngày 17, 18 và 24-10-2022 các bị cáo Phạm Văn B , Võ Văn p, Tô Thị Ngọc T , Vương B có đơn kháng cáo. Qua xem xét đơn kháng cáo phù hợp với trình tự, thủ tục quy định tại Điều 332; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định hành vi của các bị cáo thể hiện như sau: Ngày 07-02-2022, Công an Huyện Q bắt quả tang sòng bạc lắc tài xỉu tại Miếu Suối Nhánh thuộc khu vực ấp Thuận Tân, xã Truông Mít, Huyện Q , tỉnh Tây Ninh do bị cáo Phạm Văn B làm cái cho 17 người khác tham gia đặt cược sát phạt với nhau. Trong đó có bị cáo Vương B, Võ Văn p, Tô Thị Ngọc T ...có căn cứ xác định tiền dùng vào việc đánh bạc là 95.912.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tụ trị an tại địa phương, cần xử lý nghiêm các bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
[4] Về xác định số tiền đánh bạc: Cấp sơ thẩm xác định tiền dùng vào việc đánh bạc là 117.712.000 đồng bao gồm cả tiền xâu là chưa chuẩn xác. Theo Nghị quyết 01/2010/NQ-HDTP năm 2010 của Tòa án nhân dân Tối cao, xác định tiền dùng vào việc đánh bạc gồm: Tiền trên chiếu bạc + tiền trong nguời các con bạc và tiền nơi khác có căn cứ dùng vào việc đánh bạc. Trong vụ án này, số tiền xâu 1.500.000 đồng là tiền nhóm các bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc” thu tiền giờ theo ca, đây là căn cứ để xử lý đối với tội danh “Tổ chức đánh bạc”. Không xem xét đối vói nhóm phạm tội “Đánh bạc”.
Xác định tiền dùng vào việc đánh bạc của các bị cáo như sau: Tiền trên chiếu bạc là 24.200.000 đồng. Tiền thu giữ trong người các con bạc là 69.550.000 đồng. Tổng tiền các con bạc mang theo có căn cứ xác định dùng vào việc đánh bạc là 95.912.000 đồng. Trong số tiền 95.912.000 đồng ngoài hành vi sử dụng tiền dùng vào việc đánh bạc, còn tiêu xài cá nhân (bị cáo B1 sử dụng 300.000 đồng để mua vé số, bị cáo Đặng Thị Khoa (không có kháng cáo) sử dụng 30.000 đồng mua bò lụi, xúc xích ăn, bị cáo Phạm Lân Ngân...). Cấp sơ thẩm cần khắc phục.
[5] Xét kháng cáo của các bị cáo, thấy rằng:
[5.1] Đối vói bị cáo Phạm Văn B : Làm cái cho 17 người tham gia đặt cược, tiền dùng đánh bạc là 96.450.000 đồng. Bản thân bị cáo mang theo 10.000.000 đồng để làm cái và yêu cầu Quang giữ tiền chung chi, con gái bị cáo là Thu Hương quan sát sòng bạc, sau đó cho bị cáo Bừng mượn thêm tiền của con gái bị cáo là Anh Lê 3.000.000 đồng để tham gia sát phạt. Tổng số tiền bị cáo Bừng dùng vào việc đánh bạc là 13.000.000 đồng, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 03 năm 06 tháng tù theo điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tỉnh tiết mới, tuy nhiên hiện tại bị cáo đã 66 tuổi, sức khỏe yếu, bản thân bệnh mổ chân, lãng tai. Áp dụng chính sách khoan hồng của Nhà nước giảm một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không đủ điều kiện áp dụng chế định án treo theo Nghị quyết 01/2022/NQ-HDTP ngày 14-5- 2022 của Tòa án nhân dân Tối cao.
[5.2] Đối với bị cáo Vương B: Mang theo 700.000 đồng tham gia đánh bạc bị bắt quả tang. Nhân thân xấu, đã bị kết án về tội cố ý, năm 2008 bị xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tại cấp phúc thẩm được Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng không đến phiên tòa, thể hiện có thái độ xem thường pháp luật, không chấp hành pháp luật. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo. Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm tù là phù hợp, không có tình tiết mới, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[5.3] Đối với bị cáo Tô Thị Ngọc T : Mang theo 3.000.000 đồng, đặt cược 15 ván từ 50.000 đồng đến 500.000 đồng/1 ván. Nhân thân xấu, năm 2002 bị xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, phạt bổ sung 8.000.000 đồng, đến nay chưa thi hành án là tình tiết tăng nặng tránh nhiệm hình sự. Cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tang nạng theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sụ là thiếu sót. Mức án đã xử 01 năm tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm không có tình tiết mới, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo.
[5.4] Đối với bị cáo Võ Văn p: Mang theo 3.300.000 đồng, đặt cược 100.000 đồng/1 ván, thắng được 700.000 đồng, bị tạm giữ 4.000.000 đồng. Cấp sơ thẩm xử phạt 01 năm 06 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp tài liệu thể hiện cha mẹ đã chết, vợ chết năm 2021, đang nuôi mẹ vợ đã già yếu, quá trình dịch bệnh Covid-19 điễn ra trên địa bàn Huyện Q , tỉnh Tây Ninh phức tạp, bị cáo có tham gia tình nguyện phòng chống dịch, có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Truông Mít. Có căn cứ áp dụng tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Có căn cứ chấp nhận kháng cáo giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7] Án phí: Bị cáo Bừng, bị cáo P không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo T , bị cáo B1 mỗi người phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn B , bị cáo Võ Văn p.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tô Thị Ngọc T , bị cáo Vương B.
Sửa bản án sơ thẩm.
2/. Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn B , Võ Văn p, Tô Thị Ngọc T , Vương B phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn B 03 (ba) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tô Thị Ngọc T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian giam giữ từ ngày 07-02-2022 đến ngày 15-02-2022.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vương B 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian giam giữ từ ngày 07-02-2022 đến ngày 15-02-2022.
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Văn p 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Khấu trừ thời gian giam giữ từ ngày 07-02-2022 đến ngày 25-02-2022.
3/. Án phí: Bị cáo Vương B, bị cáo Tô Thị Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Phạm Văn B , bị cáo Võ Văn p không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
4/. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội đánh bạc số 213/2022/HS-PT
Số hiệu: | 213/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về