Bản án về tội đánh bạc số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Phú Thị D; sinh năm: 1978; giới tính: Nữ; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: B45, Lô B Chung Cư Bình Thới, Phường 8, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 3/12; con ông Phú Văn H và bà Bao Thị M; Hoàn cảnh gia đinh: có chồng tên là Phạm Minh S và có 01 người con. Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 16/12/2021, đến ngày 22/12/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Minh S, sinh năm: 1976; địa chỉ: B45, Lô B Chung Cư Bình Thới, Phường 8, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 55 phút ngày 16/12/2021, Đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 11, tiến hành kiểm tra quán cà phê Mộc, số C08 Lô C, Chung cư Bình Thới, Phường 8, Quận 11. Qua kiểm tra đã phát hiện và bắt quả tang Phú Thị D đang nhắn tin mua bán số đề, nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ đồ vật tài liệu, điện thoại di động có tin nhắn mua bán số đề, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 xử lý theo quy định.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành lập biên bản làm việc, lập biên bản kiểm tra các nội dung tin nhắn mua bán số đề trên điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu trắng thu giữ của Phú Thị Dẹn. Qua kiểm tra về cách thức mua bán số đề, đã xác định số tiền đánh bạc trong ngày 16/12/2021 của Phú Thị D là 9.018.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Phú Thị D khai nhận như sau: D bắt đầu chơi số đề vào tháng 11/2021, bắt đầu mua bán số đề khoảng 01 tuần trước khi bị bắt. Hàng ngày, D nhận bán số đề cho khách qua tin nhắn điện thoại di động và tin nhắn Messenger. Hình thức mua bán số đề của D là thông qua điện thoại di động bằng hình thức nhắn tin, khi các đối tượng cần ghi đề thì sẽ nhắn tin qua số điện thoại hoặc tin nhắn Messenger cho D, sau khi nhận tin nhắn, nếu D đồng ý mua bán số đề với khách thì D sẽ nhắn “ok” gởi cho khách là xác nhận việc mua bán số đề thành công. D sử dụng điện thoại di động có số thuê bao 0906253207 và Messenger Thị Vẹn Ph để nhận mua bán số đề với khách và giao dịch với chủ thầu đề. Ai muốn mua số đề thì sẽ nhắn tin những số đề muốn mua với số tiền và gửi cho D qua tin nhắn điện thoại hoặc tin nhắn Messenger, D xác nhận đồng ý bằng cách trả lời tin nhắn “ok”, sau đó D copy tin nhắn khách mua đề và gửi qua tin nhắn điện thoại cho chủ thầu đề “H đề” (chưa rõ lai lịch, có số điện thoại 0773620693). H xác nhận đồng ý bằng cách gửi lại tin nhắn của D và thêm chữ “ok” ở cuối tin nhắn. Vào chiều ngày 16/12/2021, D đã bán số đề cho 03 người gồm: “T” (Lưu trong danh bạ điện thoại, chưa rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 0377761543, Võ Thị Ánh Tt, sử dụng Messenger (T Võ) nhắn tin qua ứng dụng Messenger mua số đề của D (Messenger Thị Vẹn Ph). Khoảng 15 giờ 50 phút, D bán số đề cho đối tượng Lê Thị L, các số đề: 124, 24, 77 của Công ty xổ số kiến thiết Tây Ninh, An Giang với số tiền 2.750.000 đồng thì bị Công an Quận 11 phát hiện bắt quả tang. D trừ cho khách mua số đề 20% trên tổng số tiền mua số đề. Khách mua số đề của D vào ngày 16/12/2021 chưa ai thanh toán tiền mà thỏa thuận sau khi đối chiếu kết quả sẽ thanh toán tiền sau. Sau khi mua số đề của khách, D tổng hợp phơi đề lại gửi qua tin nhắn điện thoại cho H để hưởng hoa hồng 2% số tiền trên tổng phơi đề. Ngày 16/12/2021, ngoài việc ghi số đề của khách, sau đó sao in ra tin nhắn gửi cho H thì D tự mua số đề với đối tượng H.

Qua kiểm tra, xác định tổng số tiền mua bán số đề trong ngày 16/12/2021 của D là 9.018.000 đồng. Đối với các tin nhắn mua bán số đề các ngày trước D đã xóa. D đánh số đề một tháng và mua bán số đề một tuần trước khi bị bắt, có lúc thắng, lúc thua và lấy tiền tiêu xài cá nhân nên không nhớ chính xác tiền thu lợi bất chính. D chỉ còn lại 3.150.000 đồng là tiền D hưởng phần trăm từ H và tiền trúng thưởng của nhiều ngày trước.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Võ Thị Ánh T khai như sau: Khoảng 15 giờ ngày 16/12/2021, thấy Phú Thị D, ngồi uống nước tại quán cà phê Mộc của T, tại địa chỉ C08 Lô C, chung cư Bình Thới, Phường 8, Quận 11. Khoảng 15 giờ 30 phút, T có nhắn tin cho D qua Messenger để mua các số đề: 25 với số tiền 290.000 đồng (mua giúp người phụ nữ nhặt ve chai, không rõ lai lịch), số: 11,71 với số tiền 160.000 đồng (T tự mình mua) của Công ty xổ số kiến thiết Tây Ninh, An Giang tất cả đều chưa thánh toán tiền mà thỏa thuận sau khi có kết quả thắng thua sẽ tính sau. T sử dụng điện thoại Iphone, màu xám của T nhắn tin qua Messenger cho D để mua số đề. T không biết D bán số đề cho những người khác, cũng không hưởng lợi gì. Căn cứ kết quả điều tra xác định Võ Thị Ánh T có hành vi mua số đề vào ngày 16/12/2021, nhưng số tiền dùng để đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, T không có tiền án, tiền sự. Công an Quận 11 đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Võ Thị Ánh T với số tiền 350.000 đồng về hành vi Đánh bạc theo Khoản 1, Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Tịch thu 128.000 đồng tiền Việt Nam (số tiền T dùng để chung tiền mua số đề với D sau khi trừ 20%) và 01 điện thoại di động Iphone, màu xám mà Võ Thị Ánh T sử dụng thực hiện hành vi vi phạm.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị L khai nhận: Vào chiều ngày 16/12/2021 L đến gặp trực tiếp D tại quán cà phê Mộc, tại địa chỉ C08 Lô C, chung cư Bình Thới, Phường 8, Quận 11 và đọc những số đề mình muốn mua, gồm 124, 24, 77 của Công ty xổ số kiến thiết Tây Ninh, An Giang. D nhập vào tin nhắn điện thoại của D và gửi lại vào số điện thoại 0772211328 cho L để xác nhận việc mua bán số đề. Tổng số tiền L mua số đề của D là 2.750.000 đồng. L chưa thanh toán tiền. Khi thấy Công an đến bắt quả tang D, L đã ném bỏ chiếc điện thoại có số thuê bao trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được. Quá trình điều tra củng cố chứng cứ để xử lý L thì L không có mặt tại địa phương. Qua xác minh, Lê Thị L, có HKTT tại: ấp Đức Hạnh 2, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; Nơi ở: 180 Lạc Long Quân, Phường 3, Quận 11, TP. Hồ Chí Minh. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành xác minh tại Công an xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, kết quả: L không có hộ khẩu thường trú tại địa phương. Xác minh tại Công an Phường 3, Quận 11, kết quả: L không còn thực tế cư trú tại địa phương, bỏ đi đâu không rõ. Vì vậy, Công an Quận 11 không thể ra quyết định xử lý đối với Lê Thị L.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã gửi công văn đến Trung tâm Tính cước và Thanh khoản Công ty Thông tin di động (VMS-Mobifone) xác minh số thuê bao 0773620693; Tập đoàn viễn thông quân đội, chi nhánh TP. Hồ Chí Minh xác minh số thuê bao 0377761543, nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả.

Vật chứng của vụ án:

Cơ quan điều tra đã xử lý + Tiền Việt Nam: 7.600.000 đồng tạm giữ của Võ Thị Ánh T. Trong đó: 7.472.000 đồng là tài sản cá nhân của T, Cơ quan điều tra đã trả lại cho T; tịch thu 128.000 đồng, là tiền liên quan đến việc đánh bạc, theo Quyết định xử phạt hành chính.

+ 01 điện thoại di động Iphone, màu xám, Võ Thị Ánh T sử dụng để mua bán số đề với D. Công an Quận 11 đã tịch thu theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

+ 01 điện thoại di động Nokia 5310 là điện thoại của Võ thị Ánh T sử dụng làm phương tiện liên lạc thường ngày không liên quan đến hành vi đánh bạc. Cơ quan điều tra đã trả lại cho T.

+ 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus, màu đen là điện thoại của bị can D sử dụng làm phương tiện liên lạc thường ngày không liên quan đến hành vi đánh bạc. Cơ quan Cảnh sát điều Công an Quận 11 đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho bị can D.

Cơ quan điều tra đang tạm giữ:

- Tiền Việt Nam: 62.950.000 đồng tạm giữ của bị can Phú Thị D. Trong đó 3.150.000 (D khai tiền thu lợi bất chính từ trước đến nay mà có); 59.800.000 đồng khám xét thu giữ tại nhà Dẹn (Tiền do Chồng D và D tích góp, không liên quan đến việc phạm tội).

- 01 điện thoại di động Iphone XS Max, màu trắng, bị cáo D sử dụng để mua bán số đề.

- 01 đĩa DVD chứa dữ liệu hình ảnh ghi âm, ghi hình lời khai của Phú Thị D (Đã lưu hồ sơ vụ án).

Đối với đối tượng Võ Thị Ánh T. Do hành vi đánh bạc bằng hình thức mua bán số đề chưa đến mức xử lý hình sự, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã ra quyết định xử phạt hành chính là có căn cứ.

Đối với các đối tượng khác đã mua bán số đề với Phú Thị D cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đã tiến hành điều tra xác minh, nhưng chưa xác định được. Cơ quan cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 21/CTr-VKS ngày 21/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 đã truy tố bị cáo Phú Thị D tội danh “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo D có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, nêu các tình tiết giảm nhe, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Phú Thị D từ 09 (Chín) tháng đến 01 (Một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo có ấn định thời gian thử thách; đề nghị miễn phạt bổ sung; đưa vào hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu hình ảnh ghi âm, ghi hình lời khai của Phú Thị D; tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone XS Max, màu trắng bị can D sử dụng để mua bán số đề và số tiền 3.150.000 đồng; trả lại cho bì cáo Phú Thị D và ông Phạm Minh S số tiền 59.800.000 đồng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên; bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tung:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án:

Tại phiên tòa hôm nay, qua phần xét hỏi và tranh tụng công khai bị cáo Phú Thị D đã thừa nhận hảnh vi mua bán số đề như nội dung của bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an Quận 11, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của bị cáo Phú Thị D đã phạm tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 321 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3]Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự công cộng, tạo ra một dư luận xấu trong nhân dân và góp phần cho các tội phạm khác phát sinh như trộm cắp, cướp giật, gây rối trật tự công cộng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, mặc dù nhận thức được hành vi của mình bị pháp luật ngăn cấm nhưng vẫn ngang nhiên thực hiện bất chấp mọi hâu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Phú Thị D ghi số đề cho người khác với tổng số tiền là 9.018.000 đồng. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Phú Thị D phạm tôi “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự là có cơ sở và đúng quy định pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm tạo điều kiện cho bị cáo phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này, biết tôn trọng pháp luật, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo D chưa có tiền án, tiền sự, mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền dùng để đánh bạc không lớn. Qua diễn biến tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Phú Thị D có địa chỉ rõ ràng, trong thời gian tại ngoại bị cáo đã chấp hành tốt lệnh triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời qua đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo, đồng thời cũng có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm chung và phù hợp với quy định Điều 65 luật hình sư, đồng thời thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người phạm tội lần đầu biết ăn năn hối cải.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt bổ sung.

[6] Về xử lý vật chứng:

+Tich thu lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu hình ảnh ghi âm, ghi hình lời khai của Phú Thị D;

+ Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone XS Max, màu trắng bị cáo D sử dụng để mua bán số đề và số tiền 3.150.000 đồng là số tiền bị cáo có được do phạm tội mà có;

+Trả lại cho bị cáo Phú Thị D và ông Phạm Minh S số tiền 59.800.000 đồng là số tiền riêng của bị cáo và ông Phạm Minh S không liên quan đén hành vi phạm tội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phú Thị D phạm tội: “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 50; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Phú Thị D 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phú Thị D cho Ủy ban nhân dân Phường 8, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi địa chỉ thì thực hiện theo Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

+Tich thu lưu hồ sơ vụ án: 01 đĩa DVD chứa dữ liệu hình ảnh ghi âm, ghi hình lời khai của Phú Thị D;

+ Tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone XS Max, màu trắng và số tiền 3.150.000đ;

+Trả lại cho bị cáo Phú Thị D và ông Phạm Minh S số tiền 59.800.000đ (Năm mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng).

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 01/LNK-ĐCSHS ngày 21/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 và Quyết định chuyển vật chứng số 19/QĐ-VKS ngày 21/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11).

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

(Đã giải thích chế định án treo)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về