TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH THỪA THIÊN HUÊ
BẢN ÁN 55/2022/HSST NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngay 10 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án Nhân dân thành phố H xét xư sơ thâm công khai vu an hinh sư sơ th ẩm thu ly sô : 214/2021/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022; Thông báo thay đổi thời gian xét xử số: 31/TB-TA ngày 23 tháng 02 năm 2022, đôi vơi các bị cáo:
1. Mai Bá L (tên gọi khác: LB), sinh ngày 21/9/1969, tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi ĐKNKTT: số 119 Đường L, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Tổ 10, khu vực 5, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Bá B (đã chết) và con bà Nguyễn Thị B (đã chết); vợ, con: chưa có; anh em ruột: có 06 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; tiền án, tiền sự: Không; N thân: Lúc nhỏ sống với cha mẹ, học văn hóa hết lớp 12/12 thì nghỉ học ở nhà, sau đó làm nghề buôn bán.
Ngày 25/6/1994, bị Tòa án Nhân dân thành phố H xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Gây rối trật tự công cộng” (Bản án số 33).
Ngày 07/02/1996, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Buôn bán hàng cấm”.
Ngày 22/10/2001, bị Tòa P thẩm Tòa án Nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 06 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” (Bản án số 616/2001/HSPT).
Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương đến ngày phạm tội bị bắt quả tang (ngày 01/5/2021).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/5/2021, chuyển tạm giam từ ngày 10/5/2021 đến ngày 26/5/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam B biện pháp “Bảo lĩnh” cho đến nay - có mặt.
2. Hoàng Ngọc P (Tên gọi khác: Út), sinh ngày 28/10/1975 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Thôn B, xã B, thị xã H (nay là thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Ngọc P (đã chết) và bà Nguyễn Thị M (sinh năm 1931), vợ: Lê Thị D (sinh năm 1978); con: có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; Anh em ruột có 12 người, bị cáo là con thứ 11; tiền án, tiền sự: Không;
N thân: Lúc nhỏ sống với cha mẹ, học hết lớp 5/12 thì nghỉ học ở nhà. Sau đó làm lao động tự do cho đến ngày phạm tội bị bắt quả tang (ngày 01/5/2021).
Ngày 15/3/2016, bị Sở T nguyên và Môi trường xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 4.000.000 đồng về hành vi “Khai thác khoáng sản trái phép trên sông”.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/5/2021, chuyển tạm giam từ ngày 10/5/2021 đến ngày 26/5/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam B biện pháp “Bảo lĩnh” cho đến nay - có mặt.
3. Nguyễn Văn C (Tên gọi khác: Cu), sinh ngày 27/12/1979 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Số 118 Đường M, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (sinh năm 1953) và bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1955), vợ: Hồ Thị H (sinh năm 1978); con: có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2012; Anh em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ ba; tiền án: có 01 tiền án (Bản án số 83/2020/HSST ngày 29/5/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố H); tiền sự: không.
N thân: Lúc nhỏ sống với cha mẹ, học hết lớp 6/12 thì nghỉ học ở nhà. Sau đó làm lao động tự do.
Ngày 24/12/2003, bị Tòa án Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 28 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (bản án số 50/HSPT) Ngày 29/5/2020, bị Tòa án Nhân dân thành phố H xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” (bản án số 83/2020/HSST) Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/6/2021 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế cho đến nay - có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Văn T, sinh năm: 1999. Trú tại: thôn 9, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
2. Nguyễn Thành N, sinh năm: 1985. Trú tại: 70 Đường Đ, Tổ 2, phường T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
3. Nguyễn Văn L, sinh năm: 1971. Trú tại: số 18/9 Đường N, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
4. Nguyễn Văn H, sinh năm: 2001. Trú tại: thôn B, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
5. Châu Viết P, sinh năm: 1990. Trú tại: số 2/42 Đường T, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
6. Nguyễn Văn B, sinh năm: 1971. Trú tại: thôn B, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
7. Nguyễn Huy H, sinh năm: 1971. Trú tại: thôn B, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
8. Lê Ngọc Q, sinh năm: 1984. Trú tại: số 179 Đường T, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
9. Lê Văn D, sinh năm: 1992. Trú tại: thôn 9, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
10. Huỳnh Văn T, sinh năm: 1975. Trú tại: thôn V, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
Người làm chứng:
1. Bùi Thế V, sinh năm: 1976. Trú tại: số 63 Đường L, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
2. Lương Quang V, sinh năm: 1982. Trú tại: số 97 Đường M, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
3. Trần Quang L, sinh năm: 1988. Trú tại: số 8/5 kiệt 1 Đường N, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
4. Ngô Quang K, sinh năm: 1994. Trú tại: thôn 9, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
5. Nguyễn A, sinh năm: 1962. Trú tại: thôn A, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
6. Đoàn Đ, sinh năm: 1998. Trú tại: thôn 8B, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
7. Trần L, sinh năm: 1968. Trú tại: số 57/137 Đường T, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
8. Trần Văn Q, sinh năm: 1989. Trú tại: thôn 8B, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
9. Hồ A, sinh năm: 1968. Trú tại: thôn D, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
10. Nguyễn Văn C, sinh năm: 1983. Trú tại: tổ 2, khu vực 1, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
11. Hồ Văn H, sinh năm: 1986. Trú tại: tổ 23, khu vực 6, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
12. Nguyễn Văn C, sinh năm: 1979. Trú tại: thôn T, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
13. Bảo N, sinh năm: 1963. Trú tại: số 117 Đường H, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
14. Võ Văn H, sinh năm: 1973. Trú tại: thôn B, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
15. Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1983. Trú tại: số 17/49 Đường T, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - có mặt.
16. Nguyễn Ngọc C, sinh năm: 1980. Trú tại: tổ 2, khu vực 1, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
17. Lưu Quang M, sinh năm: 1990. Trú tại: số 70 Đường M, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
18. Lê Duy Đ, sinh năm: 1977. Trú tại: số 80 Đường H, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
19. Nguyễn Văn N, sinh năm: 1984. Trú tại: thôn 8B, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
20. Hà Văn V, sinh năm: 1995. Trú tại: tổ 1, khu vực 1, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
21. Nguyễn Văn L, sinh năm: 1966. Trú tại: thôn C, xã B, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
22. Trần Văn N, sinh năm: 1989. Trú tại: tổ 9, khu vực 4, phường H, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
23. Nguyễn Văn A, sinh năm: 1991. Trú tại: số 24/79 Đường M, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
24. Lê Văn L, sinh năm: 1985. Trú tại: tổ 9, khu vực 5, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
25. Trương Văn K, sinh năm: 1957. Trú tại: số 175/10 Đường T, phường P, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
26. Ngô Phước Văn M, sinh năm: 1991. Trú tại thôn 9, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
27. Võ Sỹ L, sinh năm: 1973. Trú tại: thôn B, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
28. Bùi Minh T, sinh năm: 1978. Trú tại: 48 Đường H, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - có mặt.
29. Tôn Thất P, sinh năm: 1979. Trú tại: 1105/2 Đường N, phường P, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
30. Nguyễn Phước T, sinh năm 1986. Trú tại thôn C, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế -vắng mặt.
31. Vũ Trần Bảo T, sinh năm: 2004. Trú tại: thôn 9, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
32. Võ Văn B, sinh năm: 1977. Trú tại: thôn B, xã B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
33. Lê Chí T, sinh năm: 1970. Trú tại Thôn D, B, thị xã H (nay xã B thuộc thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
32. Trần Phước K, sinh năm: 1991. Trú tại: 23/77 Đường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.
35. Hồ Văn G, sinh năm: 1973. Trú tại: tổ 9, khu vực 5, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng giữa tháng 4/2021, tại nhà của mình ở Village Garden LB thuộc tổ 10, khu vực 5, phường A, thành phố H, Mai Bá L tổ chức đánh bạc B hình thức đá gà thắng thua bằng tiền. Mỗi chủ gà khi đến đá nộp cho L 200.000 đồng. Tại đây, L có phục vụ nước uống, cơm trưa khi các con bạc yêu cầu. Để phục vụ việc tổ chức đánh bạc, L thuê Hoàng Ngọc P phụ giúp ở trường gà như thu tiền ví, dọn dẹp vệ sinh tại trường gà, lấy nước, cơm phục vụ cho các con bạc đến đánh bạc, L trả tiền cho P một lần từ 50.0000 đồng - 100.000 đồng, có khi cho 200.000 đồng.
Vào khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 01/5/2021, tại nhà của Mai Bá L ở Village Garden LB thuộc tổ 10, khu vực 5, phường A, thành phố H, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phát hiện và bắt quả tang Mai Bá L cùng Hoàng Ngọc P đang tổ chức đánh bạc B hình thức đá gà thắng thua bằng tiền. Tại thời điểm bắt quả tang, gà đang đá là con gà “Xám” của chủ gà Nguyễn Văn B và gà “Tía” của chủ gà Huỳnh Văn T; xác định được 11 (mười một) con bạc đang đánh bạc 08 (tám) kèo trong trận đá gà nêu trên cụ thể như sau:
1. Nguyễn Văn C lấy gà tía và Nguyễn Văn T lấy gà xám, tỷ lệ cá cược C đánh 200.000 đồng nếu thắng T sẽ chuyển 100.000 đồng cho C. Tổng tang số kèo này là 300.000 đồng.
2. Nguyễn Văn C lấy gà tía và Nguyễn Thành N lấy gà xám, tỷ lệ cá cược C đánh 200.000 đồng nếu thắng N sẽ chuyển 2.000.000 đồng cho C. Tổng tang số kèo này là 2.200.000 đồng.
3. Nguyễn Thành N lấy gà xám và Nguyễn Văn L lấy gà tía, tỷ lệ cá cược N đánh 400.000 đồng nếu thắng L sẽ chuyển 200.000 đồng cho N. Tổng tang số kèo này là 600.000 đồng.
4. Nguyễn Văn H theo Nguyễn Thành N số tiền 250.000 đồng nên phải chịu tang số này.
5. Nguyễn Văn L lấy gà xám và Châu Viết P lấy gà tía, tỷ lệ cá cược L đánh 100.000 đồng nếu thắng P sẽ chuyển 400.000 đồng cho L. Tổng tang số kèo này là 500.000 đồng.
6. Nguyễn Văn B (chủ gà) đánh 300.000 đồng và cho Nguyễn Huy H theo 200.000 đồng, tổng cộng 500.000 đồng lấy gà xám đánh với Huỳnh Văn T chủ gà tía kèo nội độ 500.000 đồng. Tổng tang số kèo này là 1.000.000 đồng.
7. Lê Ngọc Q lấy gà xám và Huỳnh Văn T lấy gà tía, tỷ lệ cá cược Q đánh 1.000.000 đồng nếu thắng T sẽ chuyển 2.000.000 đồng cho Q. Tổng tang số kèo này là 3.000.000 đồng.
8. Lê Văn D đánh 300.000 đồng với người không rõ lai lịch nhưng có căn cứ xác định tang số D dùng để đánh bạc là 300.000 đồng (do quá trình thu giữ của D số tiền 300.000 đồng dùng đánh bạc kèo này).
Như vậy, tổng số tiền dùng đánh bạc một lần của 11 (mười một) con bạc đánh bạc B hình thức đá gà thắng thua bằng tiền giữa gà của Nguyễn Văn B và gà của Huỳnh Văn T xác định được là 8.150.000 đồng (Tám triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).
* Vật chứng thu giữ:
- Thu tại vị trí đá gà: 01 (một) ví tròn dùng để đá gà, 05 (năm) bội dùng để nhốt gà, 01 (một) cân hiệu Nhơn Hòa, 01 (một) đồng hồ treo tường hiệu Phở Q.
- 05 (năm) con gà. Ngày 02/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế đã tiến hành tiêu hủy.
- Thu của Mai Bá L: 01 (một) đầu thu camera hiệu Vantech VP-4160AHDM và EZVIZ Model CS-X5S-4W, 01 (một) camera hiệu EZVIZ, SN: E91086964, 01 (một) camera hiệu EZVIZ, SN: E91836040, 01 (một) camera hiệu EZVIZ, SN: E07634668, 01 (một) camera hiệu EZVIZ, SN: E91836474. Qua điều tra xác định không liên quan đến việc tổ chức đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho Mai Bá L.
- Thu của Hoàng Ngọc P: 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu bạc, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu xanh, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “JET”, 01 (một) tờ tịch được cắt từ bìa cát tông màu vàng và số tiền 1.100.000 đồng.
- Thu của Nguyễn Văn C: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 (một) xe mô tô hiệu Atila trắng biển kiểm soát 75K7-3511 và số tiền 2.200.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho C. Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Atila trắng biển kiểm soát 75K7-3511 xác định C không dùng vào việc đánh bạc tuy nhiên hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên tiếp tục lưu giữ tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H để xác minh, làm rõ, xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
- Thu của Nguyễn Văn L: 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, 01 (một) xe máy hiệu Cub 56 biển kiểm soát 75AF-002.27 và số tiền 3.000.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, 01 (một) xe máy hiệu Cub 56 biển kiểm soát 75AF-002.27 và số tiền 2.500.000 đồng L không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho L.
- Thu của Huỳnh Văn T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 75H1-173.53 và số tiền 2.500.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 75H1-173.53 T không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho T.
- Thu của Châu Viết P: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và số tiền 1.000.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen P không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho P.
- Thu của Nguyễn Văn T: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen và số tiền 200.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen T không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho T.
- Thu của Nguyễn Văn H: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen, 01 (một) xe mô tô hiệu Wave ZX biển kiểm soát 75H2-8893 và số tiền 1.600.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen và số tiền 1.350.000 đồng H không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho H. Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Wave ZX biển kiểm soát 75H2-8893 xác định H không dùng vào việc đánh bạc tuy nhiên hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên tiếp tục lưu giữ tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H để xác minh, làm rõ, xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
- Thu của Nguyễn Huy H: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 75Z1-3922 và số tiền 500.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen H không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho H. Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 75Z1-3922 xác định H không dùng vào việc đánh bạc tuy nhiên hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên tiếp tục lưu giữ tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H để xác minh, làm rõ, xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
- Thu của Lê Văn D: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S plus, 01 (một) chứng minh Nhân dân mang tên Lê Văn D và số tiền 300.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S plus D không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho D cùng với (một) chứng minh Nhân dân mang tên Lê Văn D.
- Thu của Nguyễn Thành N: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng, 01 (một) chứng minh Nhân dân mang tên Nguyễn Thành N và số tiền 3.600.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu trắng và số tiền 3.000.000 đồng N không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho N cùng với (một) chứng minh Nhân dân mang tên Nguyễn Thành N.
- Thu của Nguyễn Văn B: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và số tiền 1.600.000 đồng. Qua điều tra xác định, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen và số tiền 600.000 đồng B không dùng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho B.
- Thu của Lê Ngọc Q số tiền 1.000.000 đồng.
Tiếp tục lưu giữ các vật chứng để giải quyết vụ án gồm:
- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 11.150.000 đồng.
- 01 (một) ví tròn dùng để đá gà.
- 05 (năm) bội dùng để nhốt gà.
- 01 (một) cân hiệu Nhơn Hòa.
- 01(một) đồng hồ treo tường hiệu Phở Q.
- 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu bạc.
- 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu xanh.
- 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “JET”.
- 01 (một) tờ tịch được cắt từ bìa cát tông màu vàng.
Tại thời điểm bắt quả tang, ngoài các con bạc tham gia đánh bạc nêu trên, qua kết quả điều tra xác định có những người đứng xem đá gà không tham gia đánh bạc gồm: Bùi Thế V, Lương Quang V, Trần Quang L, Ngô Quang K, Nguyễn A, Đoàn Đ, Trần L, Trần Văn Q, Hồ A, Nguyễn Văn C, Hồ Văn H, Nguyễn Văn C, Bảo N, Võ Văn H, Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Ngọc C, Lưu Quang M, Lê Duy Đ, Nguyễn Văn N, Hà Văn V, Nguyễn Văn L, Trần Văn N, Nguyễn Văn A, Lê Văn L, Trương Văn K, Ngô Phước Văn M, Võ Sỹ L, Bùi Minh T, Tôn Thất P, Nguyễn Phước T, Vũ Trần Bảo T, Võ Văn B, Lê Chí T, Trần Phước K, Hồ Văn G. Đối với Tài sản, đồ vật tạm giữ của những người này Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H tiến hành giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Cơ quan điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 310/CT-VKS-HS ngày 07/9/2021, Viên kiêm sat Nhân dân thành phố H đa truy tô các bị cáo Mai Bá L và Hoàng Ngọc P về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm b khoản 1 Điêu 322 Bộ luật hình sự , bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố các bị cáo Mai Bá L và Hoàng Ngọc P phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Đánh bạc”.
- Về hình phạt:
+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điêu 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Điều 35 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Mai Bá L từ 70.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng.
+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điêu 322; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Điều 35 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc P từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
+ Áp dụng khoản 1 Điêu 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn C từ 09 đến 10 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Tịch thu, nộp Ngân sách nhà nước số tiền 11.150.000 đồng;
+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) ví tròn đã dùng để đá gà, 05 (năm) bội dùng để nhốt gà, 01 (một) cân hiệu Nhơn Hòa, 01(một) đồng hồ treo tường hiệu Phở Q, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu bạc, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu xanh, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “JET”, 01 (một) tờ tịch được cắt từ bìa cát tông màu vàng.
- Về án phí: Đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố H. Lời sau cùng của các bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các Tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo, và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là H pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các Tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 10 giờ 10 phút, ngày 01/5/2021, tại nhà của Mai Bá L ở Village Garden LB thuộc tổ 10, khu vực 5, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phát hiện và bắt quả tang Mai Bá L cùng Hoàng Ngọc P đang tổ chức đánh bạc bằng hình thức đá gà thắng thua bằngằng tiền cho 11 (mười một) con bạc gồm Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thành N, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H, Châu Viết P, Nguyễn Văn B, Nguyễn Huy H, Huỳnh Văn T, Lê Ngọc Q và Lê Văn D đánh bạc 08 (tám) kèo với gà đang đá là con gà “Xám” của chủ gà Nguyễn Văn B và gà “Tía” của chủ gà Huỳnh Văn T với tổng số tiền dùng đánh bạc một lần xác định được là 8.150.000 đồng (Tám triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).
Như vậy, tổng số tiền tổ chức đánh bạc Mai Bá L và Hoàng Ngọc P phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức đánh bạc” là 8.150.000 đồng (Tám triệu một trăm năm mươi nghìn đồng). Nguyễn Văn C đánh bạc với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 2.200.000 đồng (Hai triệu hai trăm nghìn đồng) nhưng do Nguyễn Văn C đang có 01 (một) tiền án về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích (Bản án số:
83/2020/HS-ST ngày 29/5/2020 của TAND thành phố H) nên hành vi của Nguyễn Văn C đã phạm vào tội: “Đánh bạc” như bản cáo trạng số 310/CT-VKS-HS ngày 07/9/2021 của Viện kiểm sát Nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng vì muốn kiếm tiền không chính đáng nên đã cố ý phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội tại địa phương, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật khác nên cần xử lý nghiêm.
Hành vi tổ chức đánh bạc trong vụ án có đồng phạm, bị cáo Mai Bá L đã sử dụng nhà ở của mình để tổ chức đánh bạc và thu tiền từ các chủ gà khi đem gà đến đá, đồng thời còn phục vụ thêm các dịch vụ như nước uống, cơm trưa cho các con bạc khi có yêu cầu nên giữ vai trò chính, bị cáo Hoàng Ngọc P giữ vai trò được bị cáo L thuê giúp sức việc tổ chức đánh bạc là vai trò thứ hai. Bị cáo Nguyễn Văn C là người trực tiếp đánh bạc nên giữ vai trò độc L trong vụ án về hành vi đánh bạc.
[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và N thân của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tích cực Hợp tác với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Mai Bá L được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự do có bà nội là người có công với cách mạng và chú ruột là liệt sĩ.
Từ những phân tích, đánh giá trên: Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù các bị cáo tổ chức đánh bạc và đánh bạc có số lượng đông người tham gia, nhưng tính sát phạt thấp, số tiền dùng vào việc đánh bạc chỉ 8.150.000 đồng. Đối với bị cáo L và P không có tiền án, tiền sự, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần xem xét áp dụng Điều 35 Bộ luật hình sự để xử phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo. Đối với bị cáo C mặc dù số tiền dùng đánh bạc chỉ 2.200.000 đồng, nhưng do bị cáo đang có 01 tiền án về hành vi “đánh bạc” chưa được xóa án tích nhưng trong thời gian ngắn sau khi thực hiện xong hình phạt, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi này. Nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian bằng thời gian tạm giam đến ngày xét xử sơ thẩm là 08 tháng 21 ngày cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 11.150.000 đồng là tiền các con bạc sử dụng vào việc đánh bạc khi bị bắt quả tang, nên cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.
- Đối với những dụng cụ sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc cần tịch thu tiêu hủy gồm: 01 (một) ví tròn dùng để đá gà, 05 (năm) bội dùng để nhốt gà, 01 (một) cân hiệu Nhơn Hòa, 01(một) đồng hồ treo tường hiệu Phở Q, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu bạc, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu xanh, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “JET”, 01 (một) tờ tịch được cắt từ bìa cát tông màu vàng.
- Đối với một số Tài sản và tiền Cơ quan điều tra thu giữ khi bắt quả tang, nhưng trong quá trình điều tra xác định không sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc nên đã trả lại cho các đối tượng đến đánh bạc là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với 03 chiếc xe máy còn lại gồm xe Atila biển số 75K7-3511, xe wave biển số 75H2-8893, xe Jamaha Sirius biển số 75Z1-3922; mặt dù những chiếc xe này không liên quan đến hành vi phạm tội trong vụ án, nhưng do trong quá trình điều tra chưa xác định được nguồn gốc và chủ sở hữu sử dụng, nên Cơ quan điều tra tiếp tục thu giữ để xác minh làm rõ là phù hợp, đúng quy định.
[7]. Về án phí: Các bị cáo phải nộp phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: Các bị cáo Mai Bá L (tên gọi khác: LB) và Hoàng Ngọc P (tên gọi khác: Út) phạm tội "Tổ chức đánh bạc"; bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 35 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Mai Bá L (tên gọi khác: LB) 80.000.000 đồng (Tám mươi triệu đồng).
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc P (tên gọi khác: Út) 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 299 và khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 08 tháng 21 ngày tù, thời hạn phạt tù bằng thời gian bị tạm giữ tạm giam (Là từ ngày 17/6/2021 đến ngày xét xử sơ thẩm 10/3/2022). Tuyên bố trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu, nộp Ngân sách nhà nước số tiền 11.150.000 đồng (Số tiền này căn cứ Quyết định chuyển vật chứng số 119/QĐ-VKS-HS ngày 07/9/2021 của Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã chuyển nộp tiền sang Chi cục Thi hành ánhân dân sự thành phố H, Số T khoản 394901054597, So HD-Invoice No: 090921.0007.000033….
- Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) ví tròn dùng để đá gà, 05 (năm) bội dùng để nhốt gà, 01 (một) cân hiệu Nhơn Hòa, 01(một) đồng hồ treo tường hiệu Phở Q, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu bạc, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “SAIGON” màu xanh, 01 (một) tờ tịch được cắt từ vỏ bao thuốc lá “JET”, 01 (một) tờ tịch được cắt từ bìa cát tông màu vàng.
(Các vật chứng trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/9/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H và Chi cục thi hành ánhân dân sự thành phố H).
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc các bị cáo Mai Bá L (tên gọi khác: LB), Hoàng Ngọc P (tên gọi khác: Út), Nguyễn Văn C mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người nêu trên vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án về tội đánh bạc số 55/2022/HSST
Số hiệu: | 55/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về