TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 148/2022/HS-PT NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 126/2022/TLPT-HS ngày 11/5/2022, đối với bị cáo Hoàng Văn L về tội: “Đánh bạc”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Hoàng Văn L, sinh ngày 06/9/1995 tại tỉnh Bắc Giang; nơi cư trú: Thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn D1, sinh năm 1964 và bà Ngọc Thị T, sinh năm 1969; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2021 đến ngày 28/12/2021 thì được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Nông Trọng N, Nguyễn Đức D, Nguyễn Đăng H nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 21/12/2021, Hoàng Văn L, đã sử dụng điện thoại di động gọi điện, nhắn tin rủ Nông Trọng N và Nguyễn Đức D đến quán cà phê Y (do Nguyễn Đăng H là chủ cơ sở) tại thôn X, xã T, huyện B để đánh bạc, được thua bằng tiền; cả N và D đều đồng ý. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày cả 3 lần lượt có mặt tại quán cà phê Y để tham gia đánh bạc với nhau. Khi đến quán, được sự đồng ý của H nên L, N, D đã sử dụng căn phòng bán cà phê phía sau quán để đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào liêng, thắng – thua bằng tiền mặt; trong mỗi ván bạc thì số tiền đặt cược thấp nhất là 100.000 đồng, số tiền đặt cược thêm (tố) mỗi lần cao nhất là 500.000 đồng, không giới hạn số lần cược thêm. Trong lúc L, N, D tham gia đánh bạc thì H ngồi cạnh xem, ngoài ra D có nhờ H cầm bài của D để đánh bạc giúp D khoảng 30 phút; việc đánh bạc bắt đầu từ khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/12/2021, đến hồi 21 giờ 40 phút cùng ngày bị Công an huyện Buôn Đôn bắt quả tang. Tạm giữ tại mặt bàn dùng làm chiếu bạc số tiền: 14.200.000 đồng là tiền số người trên đang sử dụng để đánh bạc; tạm giữ trên người của Hoàng Văn L số tiền 18.280.000 đồng; tạm giữ trên người của Nguyễn Đăng H số tiền 200.000 đồng;
Khi đi đánh bạc bị cáo Hoàng Văn L mang theo khoảng hơn 20.000.000 đồng. Khi bắt đầu đánh bạc L lấy ra khoảng hơn 2.000.000 đồng để trên mặt bàn sử dụng để đánh bạc. Đối với số tiền 18.280.000 đồng tạm giữ trên người, L mang theo mục đích nhờ H chuyển tiền từ tài khoản của H cho L, sau đó L sẽ trả tiền mặt cho H và không sử dụng số tiền này vào mục đích đánh bạc. Bị cáo Nông Trọng N mang theo khoảng hơn 5.000.000 đồng, khi bắt đầu đánh bạc N lấy toàn bộ số tiền này ra để trên mặt bàn sử dụng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt N đã bị thua khoảng trên 1.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền N sử dụng vào mục đích đánh bạc đã bị tạm giữ. Bị cáo Nguyễn Đức D mang theo khoảng hơn 6.000.000 đồng, khi bắt đầu đánh bạc, D lấy toàn bộ số tiền này ra để trên mặt bàn sử dụng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt D đã bị thua khoảng trên 2.000.000 đồng, toàn bộ số tiền D sử dụng vào mục đích đánh bạc đã bị tạm giữ. Bị cáo Nguyễn Đăng H khai quán cà phê Y và quyền sử dụng thửa đất thuộc sở hữu của vợ H là bà Nguyễn Nhã V. Quán cà phê do hai vợ chồng H cùng kinh doanh và H có quyền quản lý đối với địa điểm này. H chỉ thu tiền bán hàng chứ không thu khoản phí nào khác. Trong lúc các bị cáo trên đánh bạc với nhau thì H ngồi bên cạnh xem, hình thức đánh bạc là chơi bài cào liêng, thắng – thua bằng tiền, tiền đặt cược của mỗi người trong mỗi ván bạc từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng. Bản thân H trong lúc ngồi xem thì được D nhờ cầm bài để đánh bạc giúp D khoảng 30 phút trước khi bị bắt. Về số tiền 200.000 đồng tạm giữ trên người bị cáo H, bị cáo khai nguồn gốc từ việc buôn bán mà có và không sử dụng để đánh bạc.
Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã tạm giữ tổng số tiền 14.200.000 đồng là tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc của các bị cáo; tạm giữ công cụ, phương tiện đánh bạc là 01 chiếc bàn mặt bằng gỗ công nghiệp kích thước (70x50)cm, chân và khung bàn bằng kim loại cao 40cm được dùng làm chiếu bạc và 03 (ba) bộ bài Tây đã sử dụng, mỗi bộ có 52 (năm mươi hai) quân bài; tạm giữ tang vật liên quan là 03 máy điện thoại di động gồm: 01 máy điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 7 Plus vỏ máy màu vàng – trắng, số imei: 355837084421656 của bị cáo Hoàng Văn L, 01 (một) máy điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XS Max vỏ máy màu đen, số imei: 357266097984229 của bị cáo Nông Trọng N, 01 (một) máy điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 8 Plus vỏ màu đỏ, số imei: 354832092797966 của bị cáo Nguyễn Đức D.
Bản kết luận định giá tài sản số 03/KL-ĐGTS ngày 09/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện B xác định giá trị sử dụng còn lại của máy điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 7 Plus là 3.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại của máy điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XS Max là 8.000.000 đồng giá trị sử dụng còn lại của máy điện thoại di động nhãn hiệu iPhone 8 Plus là 5.000.000 đồng, giá trị sử dụng còn lại của chiếc bàn là 100.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/12/2021 đến ngày 28/12/2021.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Nông Trọng N, Nguyễn Đức D, Nguyễn Đăng H, về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/4/2022, bị cáo Hoàng Văn L kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Văn L và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Xét mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó đề nghị: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn L, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo Hoàng Văn L tại phiên tòa phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ ngày 21/12/2021 các bị cáo Hoàng Văn L, Nông Trọng N, Nguyễn Đức D, Nguyễn Đăng H đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào liêng, thắng – thua bằng tiền mặt, đến 21 giờ 40 phút cùng ngày bị Công an huyện Buôn Đôn bắt quả tang. Tạm giữ tại mặt bàn dùng làm chiếu bạc số tiền: 14.200.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc. Cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Hoàng Văn L, nhận thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an tại địa phương. Bị cáo là người khởi xướng, dùng điện thoại gọi rủ rê các bị cáo khác cùng tham gia đánh bạc, sử dụng số tiền khoảng hơn 2.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là đảm bảo đúng pháp luật. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo lần đầu phạm tội, quá trình điều tra và tại các phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, số tiền bị cáo đánh bạc không lớn, đã từng tham gia nghĩa vụ quân sự, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, để bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình của bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn L sửa bản án sơ thẩm về biện pháp chấp hành hình phạt.
[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Hoàng Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn L, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 07/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Toà án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn L 06 (Sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Hoàng Văn L cho Uỷ ban nhân dân xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk là nơi bị cáo thường trú để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự. Trường hợp người được hưởng án treo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án Hình sự.
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hoàng Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội đánh bạc số 148/2022/HS-PT
Số hiệu: | 148/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về