Bản án về tội đánh bạc số 143/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 143/2022/HS-PT NGÀY 15/07/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 15 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153/2022/TLPT- HS ngày 16 tháng 5 năm 2022. Do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q đối với bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sô 169/QĐXXPT-HS ngày 10/6/2022.

* Các bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Viết Đ, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1993 tại xã Thiệu Ng, huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Thôn Ng, xã Th, huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiêp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Viết Th (SN1968) và bà Nguyễn Thị H (SN1970); Vợ: Nguyễn Thị Ngọc Anh (SN 1998); Có 01 con (SN 2020). Tiền sự; Tiền án: Không.

Nhân thân: Năm 2015 bị TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 03 tháng 15 ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/04/2015, chấp hành xong án phí theo quy định.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 14/4/2021 đến ngày 23/4/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt).

2. Lê Thế Q, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1992 tại xã Đông K, huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Làng V, xã Đ, huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Thế Th (SN 1959) và bà Lê Thị M (SN 1962); Vợ; Con: Chưa. Tiền sự; Tiền án: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 14/4/2021 đến ngày 23/4/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Không kháng cáo): Ông Lê Tam H (SN 1968); Địa chỉ: Thôn 2, xã Thiệu L, huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ti ngày 14/4/2021 Lê Hữu T (SN 1992) ở thôn Tuyên H, xã Đông K, huyện Đông S, Thanh Hóa đang ngồi chơi cùng với Lê Thế Q (SN 1992) ở Thôn Viên Khê 2, xã Đông K, Đông S thì nghe điện thoại của Lê Thị L (SN 1993) ở Thôn 6, xã Dân Lý, huyện Triệu Sơn gọi đến, Tám nói với Q là L gọi điện rủ đi đánh bạc. Lúc này Lê Thế Ph (SN 1990) ở cùng làng với Q đang ở phòng bên cạnh đi sang nghe Tám rủ lên Ba C uống nước với L thì đồng ý, cả ba người thuê taxi hãng Mai L chở từ xã Đông K, huyện Đông S đến xã Dân Lý, Triệu Sơn đón L sang Ngã Ba C, thị trấn Thiệu H, huyện Thiệu H uống nước ở một quán không nhớ tên với mục đích đợi các con bạc đến để tham gia đánh bạc.

Chu Đình Th (SN 1984) ở Thôn Lạc Tr, xã Yên Trung, huyện Yên Định liên lạc với L biết L cùng một số người đang ở quán nước tại Ngã Ba C thì gọi điện cho Nguyễn Xuân M (SN 1993) ở số nhà 45, Chu Nguyên L, Phường Nam Ngạn, Tp Thanh Hóa thông báo cho M lên Thiệu H làm tín dụng và thu tiền hồ cho xới bạc chuẩn bị chơi. Tuy nhiên Cơ quan Điều tra đã tiến hành đối chất nhưng Thực chỉ thừa nhận gọi điện cho M để trao đổi việc cá nhân chứ không bảo M lên Thiệu H làm tín dụng ở xới bạc. Sau khi Linh, Q, Tám, Phước ngồi quán nước ở Ngã Ba C một lát thì gặp M và ông Nguyễn Xuân A (Là bố đẻ của Mạnh, SN 1972) đến, tiếp theo có Thực lái xe ô tô nhãn hiệu Mazda CX5 màu trắng không nhớ biển kiểm soát mà Thực thuê ở cửa hàng không nhớ tên tại phường Lam Sơn, Thành Phố Thanh Hóa đến, tiếp đó là người tên Đạm có mặt, sau cùng là Lê Ngọc Th (SN 1989) ở khu 3, thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Thành (Là anh rể của Linh) gọi điện cho L hỏi L đang ở đâu thì L trả lời đang uống nước ở Ngã Ba C rủ Thành sang uống nước cùng. Ngoài ra Chu Đình Th còn gọi điện cho Nguyễn Viết Ph (SN 1991), Nguyễn Viết Đ (SN 1993) đều ở xã Thiệu Ng, huyện Thiệu H và Nguyễn Văn Chiến (SN 1986) ở xã Đông Thanh, huyện Đông S đi đánh bạc, Đ, Phúc, Chiến đồng ý.

Ti Ngã Ba C khi các con bạc tập trung đã đông Lê Thị L nói với mọi người “Đi thôi”, thì mọi người đều hiểu là đứng dậy để di chuyển đến nơi đánh bạc. L điều khiển xe ô tô mà Thực đi tới, trên xe có Thực, Tám, Q, Phước và Đạm đi trước dẫn đường, M và bố M đi taxi theo sau, Thành lái xe ô tô của mình đi sau theo xe của Linh. L lái xe được một đoạn thì Thực nhìn thấy Phúc đi xe máy chở theo anh Nguyễn Văn Th (SN 1981) ở xã Thiệu Ng đang ở phía sau nên hạ kính xe vẫy tay ra hiệu cho Phúc đi theo xe của Thực đến địa điểm đánh bạc. L dẫn mọi người vào nhà ông Lê Tam H (SN 1968) ở Thôn 2, xã Thiệu L, Thiệu H là bác ruột của Linh, mọi người vào trong nhà ông H thì lúc này Chiến cũng đến, sau đó đến Phúc, L dẫn mọi người lên tầng 2 nhà ông H để chơi bạc. Người đến cuối cùng là Nguyễn Viết Đ, sau khi Đ gọi điện hỏi Thực hỏi xem chơi bạc ở đâu được Thực chỉ địa điểm thì Đ rủ anh Nguyễn Lệnh Thiện (SN 1993) ở xã Thiệu Ng đi cùng.

Mạnh là người trực tiếp cầm số tiền 90.000.000đ để cho các con bạc vay sử dụng để chơi bạc. Quá trình điều tra M khai báo số tiền 90.000.000đ này là do L đưa cho M tại nhà ông H để M làm tín dụng. Tuy nhiên Cơ quan Điều tra đã tiến hành đối chất nhưng L không thừa nhận. Sau khi các đối tượng đến đông đủ có 06 người bao gồm: Lê Hữu T, Lê Thế Q, Lê Thế Ph, Lê Ngọc Th, Nguyễn Viết Ph, Nguyễn Viết Đ ngồi xuống chiếu và tham gia đánh bạc ăn tiền cùng nhau. Khi bắt đầu đánh bạc Nguyễn Xuân M đã thu của mỗi đối tượng đánh bạc là 500.000đ, đồng thời cho Tám vay 30.000.000đ, cắt lãi 1.500.000đ; cho Phước vay 10.000.000đ, cắt lãi 500.000đ, Lê Ngọc Th vay 10.000.000đ, cắt lãi 500.000đ; Nguyễn Viết Đ vay 20.000.000đ, riêng Đ chưa bị thu tiền hồ và tiền cắt lãi. Phúc khai báo mang theo số tiền 6.000.000đ sử dụng để đánh bạc, Q mang theo 3.000.000đ sử dụng để đánh bạc. Các bị cáo đánh bạc bằng hình thức ba cây cầm chương được thua bằng tiền đặt cược thấp nhất là 100.000đ, đặt cược tối đa do người cầm chương thỏa thuận nhận với người chơi.

Các bị cáo đánh bạc đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa bắt quả tang. Tại chiếu bạc công an thu giữ 01 chiếu nhựa đã qua sử dụng, 03 bộ bài tú lơ khơ đã qua sử dụng, tiền Việt Nam đồng 92.000.000đ (Chín hai triệu đồng).

Quá trình điều tra xác định xới bạc tại nhà ông Lê Tam H ở thôn 2, xã Thiệu L, Thiệu H, Thanh Hóa tối ngày 14/4/2021 là do Chu Đình Th, Lê Thị L và Nguyễn Xuân M tổ chức, 06 người tham gia đánh bạc gồm: Lê Hữu T, Lê Thế Q, Lê Thế Ph, Lê Ngọc Th, Nguyễn Viết Ph, Nguyễn Viết Đ, chiếu dùng để chơi bạc là chiếu ăn cơm của gia đình ông H, việc ai là người chải chiếu và chuẩn bị bài không xác định được.

Quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu chứng cứ của vụ án.

Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa đã tuyên các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q phạm tội “Đánh bạc”. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự (BLHS). Xử phạt Nguyễn Viết Đ 37 (Ba bảy) tháng tù và xử phạt Lê Thế Q 36 (Ba sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt của các bị cáo tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt tù đối với các bị cáo khác không có kháng cáo và xử lý vật chứng, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, ngày 18 và 19/4/2022 bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q có đơn kháng cáo với nội dung đều đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung của bản án sơ thẩm đã tuyên.

Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Thanh Hóa sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân, hành vi phạm tội của các bị cáo cũng như tình tiết mới được bổ sung tại phiên tòa đã đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Thế Q, giữ nguyên mức hình phạt và cho các bị cáo được hưởng án treo.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết Đ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo 01 (Một) tháng tù và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Xét về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 333 BLTTHS, nên được coi là hợp pháp. Do vậy, HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận đơn của các bị cáo để xem xét nội dung kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đều thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội như sau:

Ti ngày 14/4/2021 Lê Thị L đã tự nguyện đưa các con bạc đến nhà bác ruột mình là Lê Tam H để cùng nhau đánh bạc. Chu Đình Th rủ Nguyễn Viết Đ và Nguyễn Viết Ph đi đánh bạc. Sau khi các con bạc tập trung đủ thì tất cả được L đưa đến địa điểm nhà ông Lê Tam H ở thôn 2, xã Thiệu L, huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây L là người mượn địa điểm cho các con bạc ngồi chơi. Khi bắt đầu đánh bạc Nguyễn Xuân M đã thu tiền hồ của mỗi đối tượng đánh bạc là 500.000đ đồng thời M sử dụng số tiền 90.000.000đ cho Tám vay 30.000.000đ, cắt lãi 1.500.000đ; cho Phước vay 10.000.000đ, cắt lãi 500.000đ, Lê Ngọc Th vay 10.000.000đ, cắt lãi 500.000đ; Nguyễn Viết Đ vay 20.000.000đ, riêng Đ chưa bị thu tiền hồ và tiền cắt lãi. Các đối tượng Lê Hữu T, Nguyễn Viết Đ, Lê Thế Ph, Lê Thế Q, Lê Ngọc Th, Nguyễn Viết Ph có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức ba cây cầm chương được thua bằng tiền, mức đặt cược thấp nhất là 100.000đ, đặt cược tối đa do người cầm chương thỏa thuận nhận với người chơi. Tổng số tiền thu giữ được tại chiếu bạc mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 92.000.000đ (Chín hai triệu đồng). Các bị cáo đánh bạc đến khoảng 22 giờ thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Li thừa nhận về hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cấp sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được kiểm tra tại phiên tòa nên hành vi phạm tội của các bị cáo đã cấu thành tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 BLHS. HĐXX căn cứ vào số tiền thu được trên người các bị cáo và số tiền trên chiếu bạc khi bắt quả tang có đủ căn cứ khẳng định tổng số tiền được dùng vào việc đánh bạc trong vụ án này là 92.000.000đ (Chín hai triệu đồng). Việc đánh bạc thắng thua bằng tiền trong từng ván bạc, vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm chung đối với toàn bộ số tiền trên.

Các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội là bột phát, không có sự phân công vai trò, không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ nên chỉ ở dạng đồng phạm giản đơn. Cấp sơ thẩm xác định tội danh và khung hình phạt cho các bị cáo như trên là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm án và xin được hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q:

[3.1] Nhận thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tình tiết giảm nhẹ này cấp sơ thẩm áp dụng là phù hợp với quy định của pháp luật. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Nguyễn Viết Đ mặc dù nhân thân năm 2015 bị TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 03 (Ba) tháng 15 (Mười lăm) ngày tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, nhưng bị cáo đã thi hành xong toàn bộ quyết định của bản án, tính đến thời điểm phạm tội này, thời gian cũng đã lâu (hơn 07 năm). Các bị cáo đánh bạc bằng hình thức đánh ba cây ăn tiền, chỉ vì ham vui nên bột phát, nhất thời pham tội, đều do các bị cáo khác gọi điện thoại rủ rê, lôi kéo tham gia đánh bạc, không phải đối tượng phạm tội chuyên nghiệp hay chủ mưu, cầm đầu, bị cáo Đ là người tham gia sau cùng; số tiền các bị cáo đánh bạc trong vụ án là không lớn (Bị cáo Q có 3.000.000đ và Đ không có tiền nên đã vay của bị cáo khác 20.000.000đ). Bản thân các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 của BLHS.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Viết Đ đã tự nguyện nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm (tại biên lai thu tiền số AA/2021/0003347 ngày 15/7/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thiệu H) theo quyết định của bản án sơ thẩm khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật, điều đó thể hiện sự ăn ăn hối cải, hối hận với việc làm của mình. Hơn nữa các bị cáo đều có đơn xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo Lê Thế Q có bố mẹ già yếu, thường xuyên ốm đau, bệnh tật, bản thân cũng đang mang căn bệnh hiểm nghèo bị lao phổi kháng thuốc Rifampicin (Thể hiện tại Bênh án của Bệnh viện phổi Thanh Hóa), hạn chế khả năng lao động. Các bị cáo đều có đơn xin được cải tạo tại địa phương, là lao động chính, đều có nơi cư trú rõ ràng, quá trình sinh sống cũng như trong thời gian tại ngoại tại địa phương luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân. Chính quyền địa phương có xác nhận và đề nghị Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa xem xét cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Ti cấp phúc thẩm, các bị cáo đều có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, HĐXX nhận thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần giao các bị cáo cho chính quyền địa phương, nơi các bị cáo cư trú và gia đình có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục cũng đủ điều kiện để các bị cáo học tập trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời vẫn đảm bảo được tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Do đó cần áp dụng Điều 65 của BLHS, xem xét cho được hưởng án treo để các bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước và sự khoan hồng của pháp luật, đồng thời cũng nhằm giáo dục, giúp đỡ các bị cáo nhận thức, sửa chữa sai lầm, phát triển lành M bản thân mà trở thành người công dân có ích cho xã hội. Giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục là phù hợp. Do vậy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Viết Đ cũng như kháng cáo xin hưởng án treo của Lê Thế Q là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là áp dụng Điều 357 của BLTTHS, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q. Sửa Bản án sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa về phần hình phạt.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 50; Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết Đ 36 (Ba sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (15/7/2022).

Xử phạt: Bị cáo Lê Thế Q 36 (Ba sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (Sáu mươi) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (15/7/2022).

Giao bị cáo Nguyễn Viết Đ cho Ủy ban nhân xã Thiệu Ng, huyện Thiệu H, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách và giao bị cáo Lê Thế Q cho Ủy ban nhân dân xã Đông K, huyện Đông S, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước đó và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Viết Đ và Lê Thế Q không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (15/7/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 143/2022/HS-PT

Số hiệu:143/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về