Bản án về tội đánh bạc số 141/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 141/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:129/2023/TLST- HS ngày 20 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:133 /2023/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Thị T, sinh ngày 02/01/1981; tại V; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Đ, xã Yên Bình, huyện V, tỉnh V; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; bố đẻ: Không xác định; bố dượng: ông Trương Văn T; Mẹ đẻ: bà Lê Thị N; có chồng là Trần Văn B (đã chết); con: Có 04 con lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại tại địa phương (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Chu Văn T, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn P, xã Kim Xá, huyện V, tỉnh V (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 50 phút ngày 18/8/2023, C an huyện V phối hợp cùng C an xã Yên Bình, huyện V kiểm tra, phát hiện Lê Thị T bán số lô trái phép tại nhà ở của mình cho 01 người nam giới tự khai tên là Lê Anh Q. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản sự việc và thu giữ tại chiếc giường gấp kê tại cửa hàng tạp hóa nhà T các vật chứng gồm: Số tiền 4.500.000đ là tiền T bán số lô trái phép cho Q; 01 quyển sổ bìa màu xanh, trên bìa có chữ “Doraemon” bên trong có 01 trang có viết các chữ và số “lô 60 06 x 100 điểm”; 01 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long, mực màu đỏ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại Reno 8 Z 5G, màu đen, số IMEI 1: 863921065680590, số IMEI 2: 863921065680582, bên trong lắp 01 thẻ sim điện thoại mang số thuê bao 097503xxxx , trên sim có in hàng số 898404800090239xxxx của Lê Thị T.

Ngay sau đó, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Thị T. Quá trình khám xét đã thu giữ 01 quyển sổ bìa màu trắng- xanh, trên bìa có in hàng chữ “RAINBOW” màu trắng, tại mặt trong trang bìa phía sau có ghi các chữ và số “lô 16 87 x 20 điểm, đề 23 x 100k” và 01 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long, mực màu xanh.

Cơ quan điều tra đã triệu tập Lê Thị T và Lê Anh Q về trụ sở làm việc, đồng thời tiến hành kiểm tra chiếc điện thoại di động đã tạm giữ của T, kết quả: Trong thư mục ảnh có 02 ảnh chụp liên quan hành vi bán trái phép lô đề của T, cụ thể: Ảnh chụp các chữ số, ký hiệu mực màu xanh ghi trên bìa trang sổ vào hồi 16 giờ 35 phút 38 giây ngày 18/8/2023 thể hiện: “Lô 16 87 x 20 điểm đề 23x100K” và Ảnh chụp các chữ số, ký hiệu mực màu đỏ ghi trong 01 trang giấy của sổ vào hồi 17 giờ 48 phút 06 giây ngày 18/8/2023 thể hiện: “lô 60 06 x 100 điểm”; T khai nhận đây là hình ảnh các số lô, đề T đã bán trái phép Chu Văn T ở xã Kim Xá, huyện V, tỉnh V vào lúc hơn 16 giờ ngày 18/8/2023 và các số lô vừa bán cho Q bị phát hiện.

Căn cứ lời khai và kết quả kiểm tra chiếc điện thoại di động của Lê Thị T nêu trên, Cơ quan điều tra đã triệu tập làm việc đối với đối tượng liên quan đến việc mua bán số lô, số đề trái phép là Chu Văn T.

Quá trình điều tra, Chu Văn T giao nộp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6, màu vàng, có số Imei: 354446064620922, bên trong lắp 01 thẻ sim điện thoại mang số thuê bao 077727xxxx, trên sim có in hàng số 840123021237xxxx.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Thị T, Chu Văn T và Lê Anh Q đều khai nhận hành vi mua bán số lô, số đề trái phép ngày 18/8/2023, cụ thể như sau:

Lê Thị T là chủ cửa hàng tạp hóa, khi tìm hiểu trên các trang mạng xã hội thì T biết cách tính thắng thua khi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề trái phép phụ thuộc vào kết quả của giải Xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày. Sáng ngày 18/8/2023, sau khi mua hàng của T thì T nhớ trước đó có lần thấy T quan tâm kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, nghĩ T có bán lô đề nên T hỏi T: “Bá có bán lô đề không?”. Do trước đây đã tìm hiểu về hình thức mua bán số lô, số đề và thấy có thể thu lợi nên T trả lời “Có” và hai người thống nhất với nhau cách thức chơi và tỷ lệ cược, tính thắng thua như sau: Số lô là số tự nhiên bất kỳ có 02 chữ số trong dãy số từ 00 đến 99 do khách chọn, mỗi một điểm lô thì T bán với giá 22.500đ. Nếu số lô của khách mua mà trùng với 02 số cuối của bất kỳ một giải thưởng nào từ giải đặc biệt đến giải bảy thì khách sẽ thắng và được T trả tiền thưởng theo tỷ lệ cứ 01 điểm lô thì được 80.000đ. Trường hợp số lô khách mua trùng với 02 số cuối của nhiều giải thì số tiền khách được hưởng tương ứng cứ nhân lên theo số lượng như vậy nhưng không được hưởng quá 03 lần. Nếu khách thua thì T sẽ được hưởng số tiền mà khách dùng để mua số lô đó. Khách mua số đề loại 02 số mà trùng với 02 số cuối của giải đặc biệt thì khách sẽ thắng và được T trả thưởng cho số tiền gấp 70 lần lượng tiền khách dùng để mua số đề đó. Ngược lại, nếu khách thua (tức là số đề khách mua không trùng với 02 số cuối của giải đặc biệt) thì T sẽ được hưởng số tiền khách dùng để mua số đề đó. Sau khi thống nhất xong thì Thu đi về còn T tiếp tục bán hàng.

Đến 16 giờ 33 phút ngày 18/8/2023, khi T đang ở nhà bán hàng thì nhận được cuộc gọi đến của T (từ số điện thoại 0777.278.xxx gọi đến số điện thoại 0975.037.xxx của Lê Thị T), Thu bảo T bán cho T các số lô: 16, 87 mỗi số với lượng 20 điểm, tổng số điểm lô T mua của T là 40 điểm tương ứng với số tiền là 900.000đ và số đề 23 với lượng 100.000đ; tổng số tiền T bán các số lô, số đề trái phép cho ngày 18/8/2023 là 1.000.000đ. T đồng ý bán lô đề cho T và ghi các số lô, số đề với lượng tiền tương ứng Thu mua vào trang bìa của quyển sổ để gần đó rồi chụp ảnh, đăng nhập vào zalo của T có tên “Nhớ Mãi” được đăng ký bằng số điện thoại 0975.037.xxx gửi ảnh vừa chụp có nội dung “lô 16 87 x 20 điểm, đề 23 x 100k” vào tài khoản zalo có tên “Chu Văn T” được đăng ký bằng số điện thoại 0904.807.xxx của T cho T để xác nhận lại các số lô, số đề T mua thì T nhắn tin “ok bá” và hẹn T tối đưa tiền nhưng T yêu cầu chuyển khoản. Do không có tiền trong tài khoản nên T đã nhờ anh Tạ Văn C, sinh năm 1995, trú tại xã Chấn Hưng- huyện V chuyển khoản từ tài khoản ngân hàng số 10200108xxxx của anh C mở tại Ngân hàng TMCP C thương Việt Nam (VietinBank) chuyển khoản số tiền 1.000.000đ vào tài khoản ngân hàng số 10787083xxxx mở tại Ngân hàng TMCP C thương Việt Nam (VietinBank) của T để trả cho T tiền mua số lô, số đề trái phép ngày 18/8/2023. Sau khi nhận được tiền anh C chuyển hộ T thì T đã thu hồi tin nhắn chụp hình ảnh số lô đề bán cho T nêu trên.

Đến khoảng 17 giờ 40 phút cùng ngày 18/8/2023, khi T đang bán hàng thì Lê Anh Q đến hỏi mua thuốc lá và hỏi T có bán lô không thì T đồng ý và trao đổi với về cách thức chơi (như đã thống nhất với T nêu trên) thì Q đồng ý. Q bảo T bán cho Q các số lô 06, 60 mỗi số với lượng 100 điểm, tổng số điểm lô T bán cho Q là 200 điểm (mỗi một điểm lô T bán cho Q với giá 22.500đ, nếu trúng được T trả 80.000đ/điểm) tương ứng với số tiền 4.500.000đ. T đồng ý bán các số lô trái phép trên cho Q và viết các số lô này cùng lượng điểm tương ứng vào 01 trang giấy của quyển sổ để theo dõi, Q trả cho T số tiền 4.500.000đ là tiền mua các số lô nêu trên. T cầm tiền để xuống giường gấp đang ngồi thì lực lượng C an huyện V làm nhiệm vụ vào kiểm tra, phát hiện hành vi T đánh bạc bằng hình thức mua bán số lô cho Q.

Tổng số tiền T bán số lô, số đề trái phép cho Chu Văn T và Lê Anh Q trong ngày 18/8/2023 là 5.500.000đ.

Ngày 21/8/2023, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã ra Lệnh phong tỏa tài khoản đối với số tiền 1.000.000đ trong tài khoản 10787083xxxx của Lê Thị T tại Ngân hàng TMCP C thương Việt Nam- chi nhánh V. Cùng ngày CQĐT đã lập biên bản phong tỏa tài khoản với Ngân hàng và thông báo cho Lê Thị T theo quy định.

Ngày 15/9/2023, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 511 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh V giám định kỹ thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại Reno 8 Z 5G, màu đen, số IMEI 1: 863921065680590, số IMEI 2: 863921065680582 (Mật khẩu mở khóa màn hình là 666666), bên trong lắp 01 thẻ sim điện thoại mang số thuê bao 097503xxxx , trên sim có in hàng số 898404800090239xxxx tạm giữ của Lê Thị T.

Ngày 05/10/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh V đã ra Kết luận giám định số 2707/KL- KTHS, kết luận: Chụp được 07 ảnh chụp trực tiếp màn hình điện thoại thể hiện nội dung tin nhắn ứng dụng zalo và hình ảnh trong ứng dụng “Ảnh”, không tìm thấy dữ liệu tin nhắn SMS, Facebook Messenger. Toàn bộ dữ liệu nêu trên được in trong phụ lục giám định, thể hiện: Có 03 cuộc gọi nhỡ zalo, 01 tin nhắn đã được thu hồi và 06 tin nhắn zalo giữa tài khoản zalo đăng nhập trên điện thoại gửi giám định với tài khoản zalo có tên “Chu Văn T” vào ngày 18/8/2023; có 02 ảnh trong ứng dụng “Ảnh” có nội dung thể hiện các số lô, số đề cùng lượng điểm, lượng tiền được ghi lại trên giấy.

Ngày 15/9/2023, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 512 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh V giám định kỹ thuật số điện tử đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6, màu vàng, có số Imei: 354446064620922, bên trong lắp 01 thẻ sim điện thoại mang số thuê bao 077727xxxx, trên sim có in hàng số 840123021237xxxx tạm giữ của Chu Văn T.

Ngày 05/10/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh V đã ra Kết luận giám định số 2708/KL-KTHS, kết luận: Chụp được 05 ảnh chụp trực tiếp màn hình điện thoại thể hiện nội dung tin nhắn ứng dụng zalo; không tìm thấy dữ liệu tin nhắn SMS, Facebook Messenger và các tệp hình ảnh. Toàn bộ dữ liệu nêu trên được in trong phụ lục giám định, thể hiện: Có 03 cuộc gọi nhỡ zalo, 01 tin nhắn đã được thu hồi và 06 tin nhắn zalo giữa tài khoản zalo đăng nhập trên điện thoại gửi giám định với tài khoản zalo có tên “Nhớ Mãi” vào ngày 18/8/2023.

Cơ quan điều tra đã thông báo nội dung các Bản kết luận giám định nêu trên cho Lê Thị T, Chu Văn T. Sau khi được thông báo, bị cáo T và Chu văn T nhất trí, không có ý kiến thắc mắc gì.

Ngày 31/8/2023, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã ra Yêu cầu cơ quan/tổ chức/cá nhân cung cấp chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử số 649 yêu cầu Tổng C ty viễn thông Mobifone cung cấp thông tin về chủ thuê bao đối với số điện thoại 0904.807.xxx đăng ký tài khoản zalo có tên “Chu Văn T” của Chu Văn T số điện thoại 0777.278.xxx T sử dụng nêu trên. Ngày 08/9/2023, Tổng C ty viễn thông Mobifone đã có C văn số 928 phúc đáp với nội dung: Thông tin chủ thuê bao của số điện thoại 0904807xxx là bà Nguyễn Thị E, sinh ngày 19/6/1964, trú tại xã Chấn Hưng- huyện V- tỉnh V (nhập mạng ngày 16/7/2021) và anh Nguyễn Minh S, sinh ngày 17/02/1970, trú tại xã Chấn Hưng- huyện V- tỉnh V (nhập mạng ngày 20/6/2023); Thông tin chủ thuê bao của số điện thoại 0777.278.xxx là Nguyễn Văn L, sinh ngày 26/3/2006, trú tại xã Đại Đồng- huyện V, tỉnh V. Thu khai nhận đây là các sim rác T sử dụng để đăng ký tài khoản zalo có tên “Chu Văn T” và sử dụng để liên lạc hàng ngày trong đó có việc mua bán số lô đề trái phép với T mà không đăng ký chính chủ; bà Én, anh Sơn đều khai nhận bản thân không đăng ký và sử dụng sim điện thoại di động trên, không biết Chu Văn T, Lê Thị T là ai, ở đâu.

Ngày 15/9/2023, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã ra Yêu cầu cơ quan/tổ chức/cá nhân cung cấp chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử số 712, yêu cầu Tổng C ty viễn thông Mobifone cung cấp thông tin về cuộc gọi đi và đến, tin nhắn đi và đến, thời gian, cột sóng của số thuê bao 077727xxxx (Thu sử dụng) trong ngày 18/8/2023. Ngày 05/10/2023, Tổng C ty viễn thông Mobifone đã có C văn số 1016 phúc đáp kèm theo 01 phụ lục gồm 01 trang thể hiện chi tiết 17 cuộc gọi đi, cuộc gọi đến, vị trí cột sóng của số điện thoại này trong ngày 18/8/2023.

Ngày 15/9/2023, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã ra Yêu cầu cơ quan/tổ chức/cá nhân cung cấp chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử số 713 yêu cầu Tập đoàn công nghiệp viễn thông Quân đội (Viettel) cung cấp thông tin về chủ thuê bao, cuộc gọi đi và đến, tin nhắn đi và đến, thời gian, cột sóng của số thuê bao 0975.037.xxx vào ngày 18/8/2023, được lắp trong chiếc điện thoại di động thu giữ của Lê Thị T nêu trên. Ngày 05/10/2023, Tập đoàn công nghiệp viễn thông Quân đội (Viettel) đã có công văn phúc đáp với nội dung: Thông tin chủ thuê bao của số điện thoại 0975.037.xxx là Lê Thị T, sinh năm 1981, trú tại thôn Đ, xã Yên Bình, huyện V, tỉnh V, kèm theo phụ lục chi tiết lịch sử các cuộc gọi đi, cuộc gọi đến, vị trí cột sóng của số điện thoại này trong ngày 18/8/2023.

Qua nghiên cứu các văn bản phúc đáp của Mobifone và Viettel nêu trên xác định: Hồi 16 giờ 33 phút ngày 18/8/2023, có 01 cuộc gọi từ số thuê bao 0777.278.xxx do Chu Văn T sử dụng gọi đến số điện thoại 0975.037.xxx của Lê Thị T với thời lượng 56 giây.

Ngày 21/8/2023, Cơ quan CSĐT C an huyện V đã ra Yêu cầu cơ quan/tổ chức/cá nhân cung cấp chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử số 650 yêu cầu Ngân hàng TMCP C thương Việt Nam - chi nhánh Bình Xuyên cung cấp thông tin về chủ tài khoản và sao kê toàn bộ giao dịch của 02 tài khoản ngân hàng số 10200108xxxx và 10787083xxxx vào ngày 18/8/2023.

Ngày 08/9/2023, Ngân hàng TMCP C thương Việt Nam có công văn số 413 phúc đáp, cung cấp thông tin chủ tài khoản 10200108xxxx là anh Tạ Văn C và chủ tài khoản 10787083xxxx là Lê Thị T. Hồi 16 giờ 55 phút anh C có chuyển số tiền 1.000.000đ vào tài khoản của T.

Tại Cáo trạng số: 138/CT-VKSVT ngày 20 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố các bị cáo Lê Thị T về tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1 Điều 51, Khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo T từ 07 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 06 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo 10.000.000đ sung vào Ngân sách nhà nước.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Đề nghị tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 4.500.000đ thu giữ của Lê Thị T và 1.000.000đ đang bị phong tỏa trong tài khoản ngân hàng VietinBank số 10787083xxxx của Lê Thị T; tịch thu tiêu hủy 02 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long, 02 thẻ sim số 898404800090239xxxx và số 840123021237xxxx; tịch thu bán phát mại sung vào ngân sác nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại Reno 8 Z 5G, màu đen của Lê Thị T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6, màu vàng của Chu Văn T là công cụ dùng vào việc phạm tội.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì đối với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra C an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, phù hợp với biên bản sự việc ngày 18/8/2023 cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Hồi 16 giờ 50 phút ngày 18/8/2023, tại nhà ở của mình ở Thôn Đ, xã Yên Bình, huyện V, tỉnh V, Lê Thị T có hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề trái phép cho Chu Văn Thu, sinh năm 1997, trú tại xã Kim Xá, huyện V, tỉnh V thông qua việc nhắn tin zalo để xác nhận số lô, đề với số tiền 1.000.000đ. Đến khoảng 17 giờ 50 phút cùng ngày, T tiếp tục bán số lô trái phép cho một người nam giới tự khai tên là Lê Anh Q với số tiền 4.500.000 đồng thì bị C an huyện V phát hiện.

Vật chứng thu giữ gồm: Số tiền 4.500.000đ, 02 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại Reno 8 Z 5G, màu đen bên trong lắp thẻ sim điện thoại mang số thuê bao 097503xxxx ; 01 quyển sổ bìa màu trắng- xanh, trên bìa có in hàng chữ “RAINBOW” màu trắng; 01 quyển sổ bìa màu xanh, trên bìa có chữ “Doraemon”. Tổng số tiền T đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề trái phép ngày 18/8/2023 là 5.500.000đ (Năm triệu năm trăm nghìn đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo T đã phạm tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017) có khung hình phạt phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội. Bị cáo là người có sự phát triển bình thường về mặt thể chất, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vì hám lợi bị cáo đã cố ý hiện hành vi đánh bạc với hình thức đánh số lô, số đề với Lê Anh Q và Chu Văn T nhằm thu lời bất chính do đó, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội thấy rằng: Trước khi phạm tội là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i,s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Từ phân tích như trên thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, là phụ nữ một mình nuôi con, do đó việc buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù là chưa cần thiết mà chỉ cần phạt bị cáo hình phạt tù cho hưởng án treo ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát cũng đủ cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000đồng để sung ngân sách Nhà nước. Xét thấy bị cáo có tài sản, thu nhập vì mục đích tư lợi thực hiện hành vi đánh bạc ăn tiền nên cần phạt bị cáo một khoản tiền sung vào ngân sách Nhà nước như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[5] Đối với những người liên quan trong vụ án:

Đối với Chu Văn T là người đã mua các số lô, số đề trái phép của Lê Thị T vào ngày 18/8/2023 với tổng số tiền là 1.000.000đ. Do T chưa có tiền án, tiền sự về các tội Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc hoặc Gá bạc, đồng thời hành vi đánh bạc giữa T và T đã bị cơ quan điều tra phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả xổ số mở thưởng nên hành vi của T không cấu thành tội Đánh bạc theo quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự, nhưng đã vi phạm quy định tại khoản 1, Điều 26 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ do vậy C an huyện V đã ra Quyết định xử phạt hành chính (bằng hình thức phạt tiền) đối với Chu Văn T là có căn cứ.

Đối với người nam giới đã mua số lô trái phép của T vào ngày 18/8/2023 với tổng số tiền là 4.500.000đ, khai tên là Lê Anh Q, sinh năm 1996, trú tại xã Đại Tự, huyện Yên Lạc, tỉnh V. Vào đêm ngày 18/8/2023, sau khi trình bày lời khai và viết bản tự khai với Cơ quan điều tra thì Q xin đi vệ sinh rồi tự ý rời khỏi trụ sở C an huyện V. Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thấy; xác minh tại xã Đại Tự, huyện Yên Lạc, tỉnh V, xác định: Không có người nào tên là Lê Anh Q có nhân thân, lai lịch như đối tượng khai báo. Do vậy, cơ quan điều tra tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 4.500.000đ của Lê Thị T và 1.000.000đ trong tài khoản ngân hàng số 10787083xxxx của Lê Thị T (đang bị phong tỏa), là tiền T có được khi bán các số lô, số đề trái phép cho cho Lê Anh Q và Chu Văn T cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long, mực màu đỏ và 01 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long, mực màu xanh của Lê Thị T là công cụ dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với 01 quyển sổ bìa màu xanh, trên bìa có chữ “Doraemon” bên trong có 01 trang có viết các chữ và số “lô 60 06 x 100 điểm” và 01 quyển sổ bìa màu trắng- xanh, trên bìa có in hàng chữ “RAINBOW” màu trắng, tại mặt trong trang bìa phía sau có ghi các chữ và số “lô 16 87 x 20 điểm, đề 23 x 100k”của Lê Thị T là vật chứng của vụ án, cần chuyển kèm theo hồ sơ là phù hợp.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại Reno 8 Z 5G, màu đen bên trong lắp thẻ sim số 898404800090239xxxx của Lê Thị T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6, màu vàng bên trong lắp thẻ sim số 840123021237xxxx của Chu Văn T là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, bán phát mại để sung ngân sách Nhà nước đối với 02 chiếc điện thoại; đối với 02 thẻ sim nêu trên do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Lê Thị T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thị T phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Khoản 1,2,5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Thị T 08 (Tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (Một) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo T cho Ủy ban nhân dân xã Yên Bình, huyện V, tỉnh V giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, phạt Lê Thị T 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung ngân sách Nhà nước.

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 4.500.000đ thu giữ của Lê Thị T; tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 1.000.000đ đang bị phong tỏa trong tài khoản số 10787083xxxx của Lê Thị T tại ngân hàng VietinBank chi nhánh V; tịch thu bán phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, loại Reno 8 Z 5G, màu đen của Lê Thị T và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6, màu vàng của Chu Văn T; tịch thu tiêu hủy 02 chiếc bút bi nhãn hiệu Thiên Long, 02 thẻ sim số 898404800090239xxxx và số 840123021237xxxx; Tất cả vật chứng và số tiền nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện V lập ngày 04 tháng 12 năm 2023.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quán vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 141/2023/HS-ST

Số hiệu:141/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về