Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 304/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 304/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 30 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 300/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 331/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Hữu A, sinh năm 1962 tại tỉnh Q; ĐKHKTT: Tổ dân phố W, phường E, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; nơi cú trú: Tổ 4, phường E, quận B, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Hưu trí; trình độ văn hóa: Lớp 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; ngày 20/11/2023 Ủy Ban kiểm tra quận ủy Bắc Từ Liêm ra quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng; con ông Nguyễn Văn R và bà Lê Thị T (đều đã chết); có vợ là: Hà Phương Y; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

* Bị hại: Cháu Phan Thị Nguyên U, sinh ngày 03/8/2009;

Người đại diện hợp pháp của cháu U: Chị Nguyễn Thị I, sinh năm 1973 (mẹ đẻ);

Cùng địa chỉ: Tập thể B2-14 khu tập thể O, tổ dân phố P, phường E, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội;

(Đều xin xét xử vắng mặt).

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn S - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hà Phương Y, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ P, phường E, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 04/03/2023, Công an phường E, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội tiếp nhận đơn trình báo của cháu Phan Thị Nguyên U, tố giác Nguyễn Hữu A có hành vi dâm ô đối với cháu U, xảy ra ngày 01/03/2023 tại số 6- H2, tập thể O, TDP P, phường E, quận Bắc Từ Liêm.

Vật chứng thu giữ: Thu của bà Hà Phương Y 01 đầu thu Camera- nhãn hiệu HIKVISION (đã qua sử dụng), serial No: 664833965.

Ngày 04/3/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định số 151, trưng cầu Trung tâm pháp y - Sở y tế Hà Nội, giám định pháp y tình dục đối với cháu Phan Thị Nguyên U.

Kết luận giám định xâm hại tình dục ở trẻ em số 269/KLTDTE-TTPY ngày 08 tháng 3 năm 2023 của Trung tâm pháp y Hà Nội kết luận:

1. Các kết quả chính:

- Kết quả lâm sàng + Xét nghiệm phát hiện dấu vết tinh dịch - PSA Card trên mẫu dịch âm đạo:

Âm tính.

+ Xét nghiệm nhuộm soi mẫu bệnh phẩm lấy từ mẫu dịch âm đạo: Không có hình ảnh tinh trùng trên tiêu bản.

+ Xét nghiệm định lượng BHCG của Bệnh viện P (Kết quả): <0.10 U/L (Khoảng tham chiếu 0 - 5 ).

+ Siêu âm cổ tử cung phần phụ: Không có thai trong buồng tử cung.

2. Kết luận: Tại thời điểm giám định, trên cơ thể của Phan Thị Nguyên U không có vết sây sát sưng nề bầm tím, không có vết rách da chảy máu. Nên không có điểm tỉ lệ tổn hại sức khỏe và không có cơ chế hình thành thương tích.

- Bộ phận sinh dục ngoài phát triển bình thường, lông mu màu đen dài, nhiều kích thước trung bình 04 - 05cm. Hai môi lớn, môi bé phát triển bình thường. Vùng âm hộ, tầng sinh môn không có vết sưng nề bầm tím, không có vết sây sát. Màng trinh: Lỗ màng trinh nhỏ, không giãn, không có vết rách cũ và mới, không có vết sây sát bầm tím.

- Tại thời điểm giám định cháu Phan Thị Nguyên U xét nghiệm Ảnt Hiv (Test nhanh Determine): Âm tính. Siêu âm tử cung phần phụ: Không có thai trong buồng tử cung. Xét nghiệm HCG (Test nhanh Determine): Âm tính. Xét nghiệm định lượng BHCG của Bệnh viện P (Kết quả): <0.10UL (Khoảng tham chiếu 0 - 5). Tại thời điểm giám định cháu Phan Thị Nguyên U hiện tại không có thai.

Ngày 21/03/2023, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra quyết định số 172, trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an, giám định đối với 01 đầu thu camera thu giữ gần nhà Nguyễn Hữu A.

Kết luận giám định số 2074/KL-KTHS ngày 26 tháng 6 năm 2023 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an như sau:

+ Không tìm thấy dữ liệu video ngày 01 tháng 3 năm 2023 lưu trữ ở trong cứng của đầu ghi hình Camera gửi giám định.

Qua điều tra xác định:

Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 01/3/2023, Nguyễn Hữu A đang cất chai nước lọc trong xe ô tô nhãn hiệu Toyota Altis màu đen, biển kiểm soát: 29A- 587xx trước cửa nhà tại: số 6 - H2 tập thể O, TDP P, phường E, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội thì thấy cháu Phan Thị Nguyên U (là hàng xóm) đi ngang qua cửa nhà, A và cháu U chào nhau. A mời cháu U vào nhà chơi. Cháu U đồng ý. Sau đó A đặt tay phải lên vai phải của cháu U ở phía sau, dẫn cháu U vào nhà. Khi cháu U vào đến tầng 01 thì A quay ra đóng cửa xe ô tô, xong quay vào đóng cửa nhà (chốt cửa phía trong). Khi đang ở tầng 01, A bảo cháu U là phòng khách nhà A trên tầng 02, cháu U đồng ý. Sau đó cháu U đi trước, A đi sau, A đặt tay phải lên vai phải của cháu U ở phía sau lưng rồi đẩy cháu U đi lên tầng 02. Khi lên đến tầng 02, cháu U ngồi xuống ghế Sofa, A ngồi cách cháu U khoảng 30- 35 cm. A mời cháu U uống nước và ăn bưởi nhưng cháu U không ăn. Lúc này A hỏi cháu U “học lớp mấy, trường nào, có dùng điện thoại không”, cháu U trả lời “cháu học lớp 9 trường Trung học E”, A ngồi sát lại phía bên tay phải của cháu U, rồi dùng hai tay ôm từ phía sau lưng và ngửi hương trên cổ cháu U, sau đó A buông cháu U ra và hỏi cháu U “có lấy số điện thoại của A không” thì cháu U từ chối. A tiếp tục dùng tay ôm sau lưng và đặt tay lên ngực (vị trí ở vú) của cháu U và ngửi hương trên cổ cháu U lần 2 thì cháu U dùng tay đẩy tay A ra. A vòng tay ra sau lưng ôm vào phần eo của cháu U; A liếm vào phần tai của cháu U, cháu U dùng tay đẩy A ra rồi lấy lý do có hẹn với bạn phải về nhà chuẩn bị. Sau đó A đi trước, cháu U đi sau, cùng xuống tầng 01, khi xuống đến tầng 01, A đứng đối diện và dùng hai tay ôm, nhấc cháu U lên và hỏi “xem cháu có nặng không”, sau đó đặt xuống và mở cửa cho cháu U về. Sau khi cháu U về, A đóng cửa lại và đi lên tầng 02 nghỉ ngơi. Cháu U về đến nhà và kể lại sự việc trên cho mẹ là chị Nguyễn Thị I nghe. Đến ngày 04 tháng 3 năm 2023, cháu U và mẹ đến Công an phường E, quận Bắc Từ Liêm trình báo sự việc trên.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Hữu A khai nhận hành vi đúng như đã nêu trên và khai: Khi cháu U ngồi ở ghế Sofa tại phòng khách nhà A trên tầng 2, A ngồi sát lại phía bên phải của cháu U và dùng hai tay vòng qua ôm ngang người cháu U (ôm phần ngực cháu U) và thơm vào sau tóc cháu U. Sau đó cháu U xin phép về thì A tiếp tục lại gần đặt hai tay lên vai cháu U từ phía sau và thơm vào tóc cháu U lần thứ 2. Khi cháu U đứng lên đi về thì A tiến sát lại đặt hai tay lên vai ở phía sau và thơm vào tóc phía sau đầu cháu U lần thứ 3. Khi xuống đến tầng 1 (trước cửa) thì A dùng 2 tay ôm phía trước người cháu U và nhấc người cháu U lên, sau đó mở cửa cho cháu U đi về.

Cháu Phan Thị Nguyên U khai: Đây là lần đầu tiên cháu vào nhà A. Cháu bị A dùng hai tay ôm từ phía sau lưng, A đặt tay lên ngực (vị trí vú) và liếm tai bên phải, A còn dùng hai tay ôm từ phía trước rồi nhấc người cháu lên.

Về dân sự: Cháu Phan Thị Nguyên U và người đại diện hợp pháp của cháu U không yêu cầu bồi thường và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Hữu A.

Đối với 01 đầu thu camera: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 292/CT-VKSBTL ngày 31/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Hữu A về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Hữu A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã quy kết, đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất, được cải tạo tại địa phương để giúp đỡ gia đình, vợ, con và hứa cải tạo tốt, không tái phạm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa, lời khai của Bị hại, người làm chứng, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Hữu A về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm i, s, v khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu A từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Hữu A cho UBND phường E, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người cao tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại bà Hà Phương Y 01 đầu thu Camera- nhãn hiệu HIKVISION (đã qua sử dụng), serial No: 664833965.

Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày:

Về tội danh: Đồng ý với tội danh, điều khoản mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã truy tố với bị cáo Nguyễn Hữu A.

Hành vi của bị cáo A đã xâm phạm đến thân thể, danh dự, nhân phẩm của cháu Phan Thị Nguyên U, ảnh hưởng lớn đến việc phát triển tâm sinh lý của trẻ em. Trẻ em là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm Điều 6 và Điều 21 Luật Trẻ em 2016.

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo A đã gây ra, để đảm bảo tính giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

Về trách nhiệm dân sự: Cháu Phan Thị Nguyên U và đại diện hợp pháp của cháu U không yêu cầu bồi thường về dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của Bị hại và đại diện hợp pháp của Bị hại về phần dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, Bị hại, Người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Hữu A tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của Bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định pháp y tình dục, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 20 phút ngày 01/3/2023, tại nhà của Nguyễn Hữu A ở số 6-H2 tập thể O, TDP P, E, Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội, Nguyễn Hữu A đã có hành vi dùng tay ôm phía sau lưng, đặt tay lên ngực (vị trí vú), liếm tai bên phải và dùng hai tay ôm từ phía trước nhấc cháu Phan Thị Nguyên U lên. Theo hướng dẫn tại khoản 3, khoản 4 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi của Nguyễn Hữu A đã xâm phạm vào bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của cháu U. Đây là hành vi “dâm ô”. Cháu U sinh ngày 03/8/2009, khi bị xâm phạm mới 13 tuổi 05 tháng nên Nguyễn Hữu A đã phạm vào tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm truy tố bị cáo về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người trưởng thành, xong đã lợi dụng sự non nớt của Bị hại còn nhỏ tuổi, chưa phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý, chưa nhận thức được hành vi xâm hại của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, thân thể của trẻ em, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của trẻ em, gây mất trật tự trị an, gây bất bình trong nhân dân, vì vậy phải xử bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, cũng như đáp ứng yêu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo - Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự; bị cáo đã từng tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam từ tháng 4/1981 đến tháng 01/2015 nghỉ hưu với cấp bậc Thượng tá; bị cáo tham gia “Nhóm từ thiện Hạnh phúc” của Hội chữ thập đỏ phường E, quận Bắc Từ Liêm từ năm 2013 đến nay, tặng quà là Cháo, Bánh mỳ và Sữa cho bệnh nhân tại Bệnh viện E Hà Nội vào sáng chủ nhật hàng tuần, có thể coi đây là thành tích xuất sắc trong sản xuất (làm thiện nguyện) của bị cáo, là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s, v khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; xét thấy hành vi của bị cáo dùng tay ôm phía sau lưng, đặt tay lên ngực (vị trí vú), là bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của Bị hại và đều là ở phía bên ngoài áo của bị hại. Sau khi sự việc xảy ra, tâm lý của cháu U vẫn ổn định, cháu vẫn đi học bình thường, hậu quả gây ra đối với Bị hại ở mức độ nhất định; bị cáo bị bệnh đái tháo đường typ 2, là người cao tuổi (61 tuổi), nhất thời phạm tội; bị cáo lần đầu phạm tội, có địa chỉ, nơi cư trú rõ ràng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, vì vậy thấy chưa cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà xử bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành người tốt, thể hiện chính sách nhân đạo, sự khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người cao tuổi, hiện vẫn đang làm thiện nguyện, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về vật chứng: 01 đầu thu Camera nhãn hiệu HIKVISION, số serial:

664833965, đã qua sử dụng, trong đó không chứa nội dung gì, là của bà Hà Phương Y (vợ bị cáo A), không liên quan đến hành vi phạm tội, sẽ trả lại bà Bốn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng là có căn cứ.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo sinh năm 1962, năm nay 61 tuổi, là người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo, Bị hại, Người đại diện hợp pháp của Bị hại, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu A phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.

Áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm i, v, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự Xử phạt Bị cáo Nguyễn Hữu A 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Hữu A cho UBND phường E, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự Trả lại bà Hà Phương Y 01 đầu thu Camera nhãn hiệu HIKVISION, số serial: 664833965, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

(Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 52/24 ngày 21/11/2023 giữa Công an quận Bắc Từ Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Hữu A được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Bị cáo, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hà Phương Y vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 304/2023/HS-ST

Số hiệu:304/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về