Bản án về tội cướp tài sản số 48/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 48/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

 Ngày 26 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 đối với:

- Các bị cáo:

1. Đoàn Thanh C, sinh năm 1992; tên gọi khác: Giàu Em; nơi sinh: Tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: Ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn L, sinh năm 1948 và bà Lê Thị T, sinh năm 1949 (chết); nhân thân: Ngày 29/6/2014 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Đến ngày 27/4/2017 chấp hành xong hình phạt tù (đã xóa án tích); tiền án: Không; tiền sự: Không; tạm giữ: 02/5/2019; tạm giam: 11/5/2019.

Bị cáo hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tam Nông và có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1991; tên gọi khác: Không; nơi sinh: Tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp U, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành H, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1971; có vợ Lê Thị Cẩm L, sinh năm 1990 và có 02 người con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2016; nhân thân: Ngày 18/12/2018 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đến ngày 30/8/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B kết luận điều tra bổ sung vụ án hình sự, đề nghị truy tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa xét xử); tiền án: Không; tiền sự: Không; tạm giữ: Ngày 02/5/2019; tạm giam: Ngày 11/5/2019 đến ngày 25/5/2019 (bỏ trốn), trong vụ án “Cướp tài sản”. Đến ngày 30/5/2019 bắt theo lệnh truy nã trong vụ án “Trốn khởi nơi giam, giữ”, tạm giữ: 30/5/2019; tạm giam: Ngày 02/6/2019.

Bị cáo hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Lê Thái N, sinh năm 1998 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H, xã P, huyện P, tỉnh An Giang

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Báo Thị Mỹ P, sinh năm 1998 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Thôn V, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận 2. Đặng Văn N, sinh năm 1997 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang.

3. Bùi Văn T, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 (có mặt)

2. Nguyễn Hữu L, sinh năm 1987 (có mặt)

3. Phạm Văn M, sinh năm 1986 (có mặt)

4. Huỳnh Bạch L, sinh năm 1985 (có mặt) Cùng nơi công tác: Đội Cảnh sát giao thông số K - thuộc Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 01/5/2019, Nguyễn Thành Đ điều khiển xe mô tô biển số  66L9-X chở Đoàn Thanh C đi hướng từ thị xã H đi huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Khi đến địa phận ấp H, xã P, phát hiện xe mô tô Exciter biển số 67K1-X do Lê Thái N điều khiển và 01 xe mô tô do Đặng Văn N điều khiển chở Báo Thị Mỹ P đi cùng chiều phía trước. Đ điều khiển xe vượt lên trái, áp sát xe mô tô Exciter biển số 67K1-X của Lê Thái N, C ngồi phía sau tay phải cầm cây cưa tự chế (loại cưa xếp, cán nhựa, lưỡi bằng kim loại) chém N một cái nhưng không trúng, N điều khiển xe chạy nhanh về phía trước nói cho bạn Đặng Văn N và Báo Thị Mỹ P đi cùng biết.

Đ và C không dừng lại tiếp tục đuổi theo áp sát, C cầm cưa chém vào người N một cái làm N bị rách tay áo còn P thì bị trầy xướt quần, N điều khiển xe bỏ chạy. Đ điều khiển xe tăng tốc chạy về phía N, C tiếp tục dùng cưa chém N một cái trúng vào đầu xe mô tô và ngón trỏ bàn tay trái của N. Lúc này, xe của N bị sứt dây sên không chạy được nên hoảng sợ bỏ chạy bộ tìm nơi ẩn núp, để lại xe mô tô cặp lề đường, C liền xuống xe dẫn chiếc xe Exciter của N đi một đoạn khoảng 10m, Đ điều khiển xe đến, dùng chân phải đạp vào phần gát chân sau bên trái xe Exciter để đẩy cho Có ngồi trên xe đi ngược lại về hướng thị xã H.

N điều khiển xe phía trước, nhìn thấy lực lượng Cảnh sát giao thông nên trình báo sự việc. Nguyễn Văn T tổ trưởng tổ tuần tra nhanh chóng đến nơi xảy ra vụ việc nhìn thấy C đã điều khiển xe Exciter đi được khoảng 10m, nhảy xuống bỏ lại chiếc xe Exciter, lên xe Dream cho Đ chở tẩu thoát. Khi C nhảy lên xe Dream, Đ mất thăng bằng nên xe ngã xuống đường tại ngã ba A. Ngay sau đó lực lượng Cảnh sát giao thông kịp thời đến khống chế, giữ Đ và C cùng nhiều tang vật có liên quan.

Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án, bị cáo, tạm giam về tội “Cướp tài sản” đối với Đ và C, đến ngày 26/5/2019 Đ trốn khỏi Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Đồng Tháp; Cơ quan điều tra tiến hành truy nã, ngày 30/5/2019 bắt được Đ, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Đ về hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ. Ngoài ra, ngày 04/7/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đồng Nai có Công văn phối hợp điều tra về việc đã khởi tố vụ án, khởi tố bị c áo đối với Đ về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng Đ đã bỏ trốn khỏi địa phương.

Vật chứng thu giữ đã xử lý gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 67K1-X, nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu xanh-bạc, số khung 0610FY091085, số máy G34E102541 của Lê Thái N dùng tiền mua nhưng khi mua không đủ tuổi nên nhờ chị ruột tên Lê Thị Ngọc L đứng tên giấy xe đăng ký, hiện Cơ quan điều tra đã trao lại cho Lê Thái N xong.

Vật chứng thu giữ chưa xử lý gồm: 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG, màu trắng, model GT-S7275R, không sim; 01 ống điếu bằng kim loại dài 13cm, đường kính1,5cm; 02 thanh sắt (đầu đoãn) dài 07cm, dẹp phía đầu, phần đầu dài 3,8cm, phần đuôi dài 3,8cm; 01 cây cưa (loại xếp) bằng kim loại, cán nhựa màu xanh, dài 53cm, phần cán dài 20cm, phần lưỡi cưa dài 33cm, rộng 04cm, mũi nhọn 01cm, cán rộng 03cm; 01 cây cưa bằng kim loại, cán nhựa màu xám, bên ngoài có chữ TOTAL, dài 30cm, phần cán dài 14cm, phần lưỡi cưa dài 16cm, phần lưỡi rộng 02cm, phần đầu nhọn rộng 0,2cm; 01 bình xịch hơi cay, màu đen vàng, bên ngoài có chữ “TAKE DOWN” dài 22cm, đường kính 06cm, phần đầu cầm màu đen, dài 16cm, rộng 03cm; 01 thanh kim loại màu đen (cây ba khúc), dài 64cm, đường kính 2,5cm, rộng 01cm; 01 ống kim loại, dài 20cm, rộng 01cm; 01 cây kéo dài bằng kim loại, dài 09cm; 03 bật lửa; 01 bộ nỏ bằng thủy tinh đã bị vở; 01 áo khoác nam, màu đen, dài tay, loại vải da, phía trong phần cổ áo sau có chữ “DIE BIN”, phần gần cổ tay áo hai bên bị bông tróc phần da vải, trên áo bên tay trái và phía bên trái có dính dấu vết bùn đất; 01 quần tây màu đen, loại quần nam, phía sau trên miệng túi quần bên phải có số “5” màu trắng; 01 xe mô tô biển kiểm soát  66L9-X, nhãn hiệu Honda, loại Dream, màu nâu, số khung RMKDCG7UM7 K701338, số máy VKVLMIP50FMG-F401338. Tất cả các vật chứng trên của Đoàn Thanh Có dùng vào mục đích đòi nợ thuê.

01 áo khoác màu đỏ - đen, hiệu DESIGN, trên tay áo có sọc trắng đen, bên trái có vết rách dài 7cm, cách cổ tay 52cm của Đặng Văn N; 01 quần Jean màu xanh, hiệu FS, trên ống quần trái có vết rách dài 3cm cách lưng 43cm của Báo Thị Mỹ P.

Bản kết luận định giá tài sản số 14/BKLĐG, ngày 03/5/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tam Nông, kết luận: xe mô tô, biển số 67K1-X, nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Exciter, màu sơn: xanh, số máy: G3D4E102541, số khung: 061FY091085, tài sản đã qua sử dụng, giá trị định giá là: 27.000.000đồng.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 142/TgT, ngày 02/5/2019 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế Đồng Tháp, kết luận: Vết thương phần mềm ngón II bàn tay trái, tỷ lệ tổn thương cơ thể của Lê Thái N do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 1%.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thành Đ không thừa nhận thực hiện hành vi cướp tài sản. Sau đó, Đ thừa nhận ngày 28/4/2019 Đ và C được một người tên D (không rõ họ và địa chỉ cụ thể) nhờ đòi nợ giúp của ngư ời tên M (không rõ họ và địa chỉ cụ thể) ở thị xã C, tỉnh An Giang. Khoảng 03 giờ, ngày 30/4/2019 C, Đ rủ thêm Nguyễn Hải Đ và Bùi Văn T tại ngã ba T, tỉnh Đồng Nai cùng đi đến nhà C tại xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Đến khoảng 15 giờ, C và Đ đi thị xã C nhưng không tìm được M nên quay về huyện T, khi đến địa phận xã P, C kêu Đ đuổi theo xe của N, P, N để chém vì thấy chạy xe qua mặt nẹt pô. Khi đuổi chém N, P và N hoảng sợ bỏ chạy để lại xe mô tô Exciter, nảy sinh ý định lấy xe, C liền dẫn xe mô tô Excite r đi một đoạn về hướng ngã ba A, sau đó ngồi lên xe nhưng không đề nổ máy được nên dùng hai chân để đẩy xe, Đ điều khiển xe Dream đến dùng chân phải giúp sức đẩy vào phần gát chân sau, bên trái chiếc xe Exciter đi, thì bị lực lượng Cảnh sát giao thông tới khống chế, giữ cả hai.

Tại Cáo trạng số: 50/CT-VKS-TN ngày 07 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố các bị cáo Đoàn Thành C và Nguyễn Thành Đ phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên phân tích các tình tiết cấu thành tội phạm và khẳng định cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Đoàn Thanh C, phạm tội "Cướp tài sản” mức án từ 08 năm đến 09 năm tù.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Đ, phạm tội "Cướp tài sản” mức án từ 07 năm đến 08 năm tù.

Tình tiết tăng nặng đối với các bị cáo: Không. Hình phạt bổ sung: Không. Về trách nhiệm dân sự và về vật chứng: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên theo Cáo trạng.

- Bị cáo Đoàn Thanh C khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Cướp tài sản” như nội dung cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tham gia tranh luận với Kiểm sát viên, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Bị cáo Nguyễn Thành Đ khai: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội “Cướp tài sản” như nội dung cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tham gia tranh luận với Kiểm sát viên, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người làm chứng Nguyễn Văn T trình bày: Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 01/5/2019 anh T tổ trưởng tổ tuần tra giao thông tuyến quốc lộ 30 đến địa phận xã P – A thì có người báo có cướp xe phía trước nên anh T nhanh chóng đến nơi xảy ra vụ việc nhìn thấy C đã điều khiển xe Exciter đi được khoảng 10m và nhảy xuống bỏ lại chiếc xe Exciter, lên xe Dream cho Đ chở tẩu thoát anh T truy đuổi theo lúc đó Đ mất thăng bằng nên xe ngã xuống đường tại ngã ba A đến khống chế, giữ Đ và C cùng nhiều tang vật có liên quan.

- Người làm chứng Nguyễn Hữu L trình bày: Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 01/5/2019 anh L cùng với anh T tổ trưởng tổ tuần tra giao thông tuyến quốc lộ 30 đến địa phận xã P thì có người báo có cướp xe phía trước nên anh và anh T nhanh chóng đến nơi xảy ra vụ việc nhìn thấy C đã điều khiển xe Exciter đi được khoảng 10m và nhảy xuống bỏ lại chiếc xe Exciter, lên xe Dream cho Đ chở tẩu thoát anh T truy đuổi theo lúc đó Đ mất thăng bằng nên xe ngã xuống đường tại ngã ba A đến khống chế, giữ Đ và C cùng nhiều tang vật có liên quan.

- Người làm chứng Phạm Văn M trình bày: Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 01/5/2019 anh M cùng với L và anh T tổ trưởng tổ tuần tra giao thông tuyến quốc lộ 30 đến địa phận xã P thì có người báo có cướp xe phía trước nên anh cùng với L và anh T nhanh chóng đến nơi xảy ra vụ việc nhìn thấy C đã điều khiển xe Exciter đi được khoảng 10m và nhảy xuống bỏ lại chiếc xe Exciter, lên xe Dream cho Đ chở tẩu thoát anh T truy đuổi theo lúc đó Đ mất thăng bằng nên xe ngã xuống đường tại ngã ba A đến khống chế, giữ Đ và C cùng nhiều tang vật có liên quan.

- Người làm chứng Huỳnh Bạch L trình bày: Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 01/5/2019 anh Long cùng với L, M và anh T tổ trưởng tổ tuần tra giao thông tuyến quốc lộ 30 đến địa phận xã P thì có người báo có cướp xe phía trước nên anh T, L, M nhanh chóng đến nơi xảy ra vụ việc còn anh L thì điều khiển xe bán tại đi sau khi đến hiện trường thì cùng tham gia bắt giữ C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01/5/2019 của Công an huyện T; Bản kết luận định giá tài sản số 14/BKLĐG, ngày 03/5/2019 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự huyện T; Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 142/TgT, ngày 02/5/2019 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế Đồng Tháp; Biên bản khám nghiệm hiện trường và Sơ đồ hiện trường cùng ngày 01/5/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Nông; Tờ tự khai ngày 01/5/2019 của bị cáo Đ; Lời khai bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng toàn bộ chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và những tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Giữa các bị cáo thực hiện vụ án là đồng phạm; tuy không có thỏa thuận với nhau trước, nhưng không thuộc dạng phạm tội có tổ chức mà chỉ là đồng phạm giản đơn, khi thống nhất ý chí thì cùng nhau thực hiện phạm tội chứ không có sự sắp xếp, phân công cụ thể, rõ ràng vai trò trước khi phạm tội. Cụ thể trong vụ án này vai trò của từng bị cáo như sau:

Bị cáo Đoàn Thanh C thực hiện với vai trò chính, là người kêu và chủ động chém N, P, N. Sau đó trực tiếp dẫn xe mô tô Exciter của N đi một đoạn 10m, rồi lên xe ngồi để Đ dùng chân đạp giúp sức đẩy đi.

Bị cáo Nguyễn Thành Đ thực hiện với vai trò giúp sức tích cực, khi được C kêu điều khiển xe lên để chém, Đ không can ngăn mà còn điều khiển xe vượt lên để C chém các bị hại. Khi thấy C lấy được tài sản của N, Đ điều khiển xe mô tô đến dùng chân giúp sức đẩy C ngồi trên xe đi, khi lực lượng Cảnh sát giao thông đến, Đ còn điều khiển xe chở C nhanh chóng tẩu thoát nhưng bị lực lượng khống chế bắt giữ.

Các bị cáo thực hiện hành vi là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản và thân thể của người khác, gây mất ổn định an ninh trật tự ở địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Các bị cáo có hành vi chiếm đoạt tài sản của Lê Thái N có giá trị là 27.000.000đồng.

Hành vi của các bị cáo dùng vũ khí thô sơ nguy hiểm là cây cưa tự chế (loại cưa xếp, cán nhựa, lưỡi bằng kim loại) đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 17 của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát truy tố các bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

[3] Quyền sở hữu tài sản hợp pháp của mỗi người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, bất kỳ ai xâm phạm đến tài sản của người khác trái pháp luật đều sẽ bị trừng trị. Bản thân các bị cáo có khả năng nhận thức được đều này nhưng vì muốn có tiền sinh hoạt chi tiêu cá nhân mà các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân mình. Qua đó thấy được ý thức xem thường pháp luật của các bị cáo nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất ổn định an ninh trật tự ở địa phương. Tuy nhiên, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng đối với các bị cáo: Không áp dụng.

[4] Hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xét thấy bản thân các bị cáo làm thuê thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, N và P không yêu cầu xử lý hình sự và bồi thường việc C dùng dao chém rách áo quần. Đối với xe mô tô Exciter bị hư hỏng, ba lô đựng quần áo bị mất và thương tích của N, N không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[6] Về vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 67K1-X, nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu xanh-bạc, số khung 0610FY091085, số máy G34E102541 của Lê Thái N dùng tiền mua nhưng khi mua không đủ tuổi nên nhờ chị ruột tên Lê Thị Ngọc L đứng tên giấy xe đăng ký. Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trao lại xe cho Lê Thái N xong nên không xem xét.

Đối với 01 ống điếu bằng kim loại dài 13cm, đường kính 1,5cm; 02 thanh sắt (đầu đoãn) dài 07cm, dẹp phía đầu, phần đầu dài 3,8cm, phần đuôi dài 3,8cm; 01 cây cưa (loại xếp) bằng kim loại, cán nhựa màu xanh, dài 53cm, phần cán dài 20cm, phần lưỡi cưa dài 33cm, rộng 04cm, mũi nhọn 01cm, cán rộng 03cm; 01 cây cưa bằng kim loại, cán nhựa màu xám, bên ngoài có chữ TOTAL, dài 30cm, phần cán dài 14cm, phần lưỡi cưa dài 16cm, phần lưỡi rộng 02cm, phần đầu nhọn rộng 0,2cm; 01 bình xịch hơi cay, màu đen vàng, bên ngoài có chữ “TAKE DOWN” dài 22cm, đường kính 06cm, phần đầu cầm màu đen, dài 16cm, rộng 03cm; 01 thanh kim loại màu đen (cây ba khúc), dài 64cm, đường kính 2,5cm, rộng 01cm; 01 ống kim loại, dài 20cm, rộng 01cm; 01 cây kéo dài bằng kim loại, dài 09cm; 03 bật lửa; 01 bộ nỏ bằng thủy tinh đã bị vở; 01 áo khoác nam, màu đen, dài tay, loại vải da, phía trong phần cổ áo sau có chữ “DIE BIN”, phần gần cổ tay áo hai bên bị bông tróc phần da vải, trên áo bên tay trái và phía bên trái có dính dấu vết bùn đất; 01 quần tây màu đen, loại quần nam, phía sau trên miệng túi quần bên phải có số “5” màu trắng, tất cả những vật chứng nêu trên thu giữ của bị cáo Đoàn Thanh C dùng vào mục đích đòi nợ thuê; 01 áo khoác màu đỏ - đen, có hiệu DESIGN, trên tay áo có sọc trắng đen, bên trái có vết rách dài 7cm, cách cổ tay 52cm của Đặng Văn N; 01 quần Jean màu xanh, hiệu FS, trên ống quần trái có vết rách dài 3cm cách lưng 43cm của Báo Thị Mỹ P. Xét thấy, các vật chứng này liên quan hành vi phạm tội của các bị cáo, các vật chứng không còn sử dụng được và N, P cũng không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp theo điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG, màu trắng, model GT- S7275R, không sim của bị cáo Đoàn Thanh C. Xét thấy, vật chứng này không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo nên xem xét trả lại cho bị cáo C là phù hợp theo điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát  66L9-X, nhãn hiệu Honda, loại Dream, màu nâu, số khung RMKDCG7UM7 K701338, số máy VKVLMIP50FMG- F401338 bị cáo C khai mượn của người tên N (không biết họ và địa chỉ cụ thể) ở tỉnh Tây Ninh. Qua xác minh chủ đăng ký xe tên Nguyễn Tuấn T, ngụ khóm L, phường K, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp, hiện T không có mặt ở địa phương nên không làm việc được. Vì vậy, tiếp tục giao cho Công an huyện T, tỉnh Đồng Tháp quản lý để làm cơ sở xử lý về sau là phù hợp theo Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Đối với N, P, N khai quá trình điều khiển xe đi cùng nhau lên Bình Dương làm thuê, không va chạm hay mâu thuẩn gì với ai. Khi đến gần ngã ba A, huyện T bị Đ và C điều khiển xe đuổi theo dùng hung khí chém N, P, N, do xe bị hỏng và hoảng sợ nên N để lại chiếc xe Exciter và cái ba lô đựng quần áo, chạy ẩn núp. N thấy C dẫn chiếc xe Exciter, Đ chạy xe Dream đến dùng chân đẩy chiếc xe của N đi một đoạn cho đến khi bị Cảnh sát giao thông đến. Ngoài ra, N thấy có hai thanh niên khác đi xe WINNER lấy cặp quần áo của N nhưng không thấy rõ đặc điểm cụ thể của hai thanh niên trên. N và P thấy có hai thanh niên (không rõ đặc điểm cụ thể) điều khiển xe mô tô chạy đến nhưng không làm gì cả. Anh T khai thấy có hai thanh niên nhưng không rõ đặc điểm. Mặc khác, trong quá trình điều tra, C, Đ và T khai, T và Đ có ngủ tại nhà C, nhưng C không biết T và Đ đi đâu, làm gì và Đ, C xác định chỉ có Đ và C thực hiện hành vi, ngoài ra không còn ai khác tham, hiện Đ không có mặt tại địa phương Cơ quan điều tra không làm việc được nên chưa đủ cơ sở xem xét đồng phạm trong vụ án.

[8] Đối với hai người lấy ba lô đựng quần áo của N đồng phạm trong vụ án, hiện Cơ quan điều tra chưa chứng minh được, lời khai của. N, P, T không thấy rõ đặc điểm cụ thể của hai người này, C và Đ khẳng định không có ai cùng tham gia. Đối với Bùi Văn T khai nhận không tham gia cướp tài sản cùng với Đ và C. Nguyễn Hải Đ không có mặt tại địa phương Cơ quan chưa làm việc được, nếu làm việc được có đủ dấu hiệu tội phạm sẽ xử lý bằng vụ án khác.

[9] Đối với vụ án trốn khỏi nơi giam, giữ do bị cáo Nguyễn Thành Đ thực hiện, Cơ quan điều tra ra quyết định nhập với vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy cùng với bị cáo Nguyễn Văn N nên không xem xét xử lý trong vụ án này.

[10] Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra thành phố B, tỉnh Đồng Nai, do bị cáo Nguyễn Thành Đ thực hiện. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đồng Nai có Công văn không nhập vụ án nên không xem xét trong vụ án này.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đoàn Thanh C phạm tội: “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đoàn Thanh C 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 02 tháng 5 năm 2019.

2. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành Đ phạm tội: “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 30/5/2019 và được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/5/2019 đến ngày 25/5/2019.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) ống điếu bằng kim loại dài 13cm, đường kính1,5cm; 02 (hai) thanh sắt (đầu đoãn) dài 07cm, dẹp phía đầu, phần đầu dài 3,8cm, phần đuôi dài 3,8cm; 01 (một) cây cưa (loại xếp) bằng kim loại, cán nhựa màu xanh, dài 53cm, phần cán dài 20cm, phần lưỡi cưa dài 33cm, rộng 04cm, mũi nhọn 01cm, cán rộng 03cm; 01 (một) cây cưa bằng kim loại, cán nhựa màu xám, bên ngoài có chữ TOTAL, dài 30cm, phần cán dài 14cm, phần lưỡi cưa dài 16cm, phần lưỡi rộng 02cm, phần đầu nhọn rộng 0,2cm; 01 (một) bình xịch hơi cay, màu đen vàng, bên ngoài có chữ “TAKE DOWN” dài 22cm, đường kính 06cm, phần đầu cầm màu đen, dài 16cm, rộng 03cm; 01 (một) thanh kim loại màu đen (cây ba khúc), dài 64cm, đường kính 2,5cm, rộng 01cm; 01 (một) ống kim loại, dài 20cm, rộng 01cm; 01 (một) cây kéo dài bằng kim loại, dài 09cm; 03 (ba) bật lửa; 01 (một) bộ nỏ bằng thủy tinh đã bị vở; 01 (một) áo khoác nam, màu đen, dài tay, loại vải da, phía trong phần cổ áo sau có chữ “DIE BIN”, phần gần cổ tay áo hai bên bị bông tróc phần da vải, trên áo bên tay trái và phía bên trái có dính dấu vết bùn đất; 01 (một) quần tây màu đen, loại quần nam, phía sau trên miệng túi quần bên phải có số “5” màu trắng; 01 (một) áo khoác màu đỏ - đen, có hiệu DESIGN, trên tay áo có sọc trắng đen, bên trái có vết rách dài 7cm, cách cổ tay 52cm; 01 (một) quần Jean màu xanh, hiệu FS, trên ống quần trái có vết rách dài 3cm cách lưng 43cm.

- Trả lại cho bị cáo Đoàn Thanh C: 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG, màu trắng, model GT-S7275R, không sim.

- Giao Công an huyện T, tỉnh Đồng Tháp quản lý: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát  66L9-X, nhãn hiệu Honda, loại Dream, màu nâu, số khung RMKDCG7UM7 K701338, số máy VKVLMIP50FMG-F401338 để làm cơ sở xử lý về sau.

(Tất cả vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đoàn Thanh C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thành Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Án xử công khai có mặt các bị cáo; vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Đối với bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 48/2019/HS-ST

Số hiệu:48/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về