TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 212/2023/HS-PT NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 22-6-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 152/2023/TLPT-HS ngày 04-4-2023 đối với bị cáo Nghiêm Trọng P. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2023/HS-ST ngày 21-2-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
- Bị cáo kháng cáo:
Nghiêm Trọng P, sinh năm 1975; nơi đăng ký HKTT: Số B, tổ B tập thể V, phường Q, quận C, thành phố Hà Nội; chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ dân phố M, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nghiêm Xuân N, sinh năm 1943 và bà Đoàn Thúy Đ, sinh năm 1945; vợ là Đỗ Thị Kim L, sinh năm 1994 và có 1 con; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 09-10-2021, đến ngày 09-12-2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cho Bảo lĩnh; bị bắt tạm giam lại ngày 30-8-2022, có mặt tại phiên tòa.
- Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo: Người bào chữa cho Nghiêm Trọng P: Luật sư Huỳnh Văn T - Công ty L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa, có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Ông Hồ D, sinh năm 1957, địa chỉ cư trú: Tổ dân phố P, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa, vắng mặt.
(Vụ án còn có 04 bị cáo khác, nhưng không kháng cáo, không bị kháng nghị; có 03 người có quyền lợi, nghiac vụ liên quan nhưng không liên quan đến kháng cáo, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 08-10-2021, Nghiêm Trọng P, Đỗ Tiến N1, Phạm Minh T1, Phạm Công S, Phạm Thành T2 cùng nhau ăn uống tại nhà của P ở tổ dân phố M, phường N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Lúc này, P rủ cả nhóm đến trang trại của gia đình anh Hồ Hữu H để đòi nợ số tiền 220.000.000 đồng mà anh H nợ P trước đó, cả nhóm đồng ý. Sau đó, P gọi điện cho anh Lê Văn H1 thuê xe chở cả nhóm đi đến trang trại của gia đình H. Khi đi, nhóm của P đem theo 01 bao vợt cầu lông bên trong có 01 mã tấu dài 70 cm, 02 dao Thái Lan và 01 cây gậy ba khúc. Khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày, cả nhóm tới nơi, anh H1 đứng ngoài trông xe còn nhóm của P đi vào trong trang trại. Lúc này, anh H đang ở trong nhà, nhìn thấy nhóm của P đến đòi nợ, nên bỏ chạy ra phía sau trang trại và điện thoại báo cho Công an phường biết sự việc. Khi nhóm của P đi tới trước cửa nhà, thấy ông Hồ D (bố của H) đang nằm ngủ, T1 gọi ông D dậy và yêu cầu ông D gọi điện cho anh H về để giải quyết chuyện nợ nần, nhưng ông D nói không có điện thoại và cũng không biết sử dụng điện thoại. Thấy vậy, S bực tức chửi bới, dùng tay phải bóp cổ, vật ông D ngã xuống đất, ông D bị đau la lên, thì S buông tay ra. Ngay lúc đó, P nói T2 đi vào trong nhà tìm chìa khóa xe ô tô, T2 vào nhà lục tìm thấy chìa khóa đem ra đưa cho P. P nói với ông D sẽ lấy xe ô tô bán tải, biển kiểm soát 79C-16424, nếu H muốn lấy lại xe thì đem tiền đến trả cho P. P lên xe ô tô nổ máy và lùi xe ra cổng thì sụp xuống hố cát, cả nhóm P cùng nhau đẩy xe ra khỏi trang trại. Cùng lúc này, Công an phường N đến ngăn chặn và yêu cầu tất cả về trụ sở làm việc.
Tại Kết luận định giá tài sản số 92/KLĐGTS ngày 11-10-2021, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thị xã N: Xe ô tô biển kiểm soát 79C-164.24 có giá trị 606.236.000 đồng.
Ngày 19-10-2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa ban hành Quyết định định giá lại tài sản số 833/YC-CSHS đối với xe ô tô 79C-164.24.
Tại Kết luận định giá tài sản số 4339/KLĐGTS ngày 27-10-2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa kết luận: Xe ô tô biển kiểm soát 79C-164.24 có giá trị 598.000.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2023/HS-ST ngày 21-02-2023, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa:
Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 168, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Nghiêm Trọng P 13 (mười ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30-8-2022 (được trừ thời hạn tạm giam từ ngày 09-10- 2021 đến ngày 09-12-2021).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh và hình phạt đối với 04 bị cáo khác; quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 07-3-2023, Nghiêm Trọng P kháng cáo xin giảm hình phạt.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Ngày 07-3-2023, Nghiêm Trọng P kháng cáo; đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo, cho rằng hành vi của bị cáo không phạm tội “Cướp tài sản”; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Diều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nghiêm Trọng P. Người bào chữa và bị cáo tranh tụng công khai; nói lời sau cùng, bị cáo hành vi của bị cáo không phạm tội “Cướp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét để có phán quyết đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo: [2.1]. Về tội danh:
Tối ngày 08-10-2021, Nghiêm Trọng P rủ Phạm Công S, Phạm Minh T1, Đỗ Tiến N1 và Phạm Thành T2 đến nhà anh Hồ Hữu H để đòi nợ giúp cho P. Khi đi nhóm của P mang theo 01 bao vợt cầu lông bên trong có 01 cây mã tấu dài 70 cm, 02 dao Thái Lan và 01 cây gậy ba khúc. Khi cả nhóm đến trang trại của gia đình anh Hồ Hữu H, thì gặp ông Hồ D (cha của anh H). Phạm Minh T1 yêu cầu ông D gọi anh H về để giải quyết việc nợ nần, ông D không thực hiện theo yêu cầu, thì bị Phạm Công S dùng tay bóp cổ, vật ông D ngã xuống đất. Cùng lúc, P bảo T2 vào nhà tìm chìa khóa xe ô tô của anh H đưa cho P, còn T1 cầm cây 3 khúc và N1 cầm cây mã tấu đi quanh nhà để tìm anh H. Sau khi T2 tìm được chìa khóa xe ô tô, P lên xe ô tô nổ máy chạy ra phía cổng nhà anh H với ý định mang xe về nhà để H mang tiền đến trả cho P, thì bị Công an phường N đến kịp thời ngăn chặn.
Tài sản bị chiếm đoạt là xe ô tô, biển kiểm soát 79C-1XXXX của anh Hồ Hữu H có giá trị 598.000.000 đồng.
Với hành vi phạm tội như nêu trên, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa kết án Nghiêm Trọng P về tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật và không oan.
[2.2]. Về hình phạt:
Nghiêm Trọng P có đủ nhận thức để đánh giá và phân biệt được việc làm của mình; bị cáo biết rõ mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác sẽ xử lý nghiêm khắc, nhưng chỉ với mục đích đòi nợ, bị cáo đã dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản của người khác. Trong vụ án này, bị cáo có vai trò là người khởi xướng, chuẩn bị hung khí, chỉ đạo các bị cáo khác và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, nên cần xử lý bị cáo hình phạt nghiêm khắc. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, nhưng cho rằng hành vi này không đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản”. Lẽ ra, bị cáo không thừa nhận tội danh, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ không xem xét về hình phạt. Tuy nhiên, việc bị cáo không thừa nhận tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án là do nhận thức của bị cáo; do đó, để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật và xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo về hành vi của mình; ngay sau khi phạm tội đã cùng các bị cáo khác tự nguyện bồi thường cho bị hại 30.000.000 đồng để khắc phục hậu quả về tổn thất tinh thần; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, mẹ của bị cáo có nhiều thành tích trong công tác xã hội ở địa phương, được tặng thưởng nhiều Giấy khen. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ giảm hình phạt cho bị cáo.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[4]. Về án phí:
Do kháng cáo được chấp nhận, nên Nghiêm Trọng P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nghiêm Trọng P.
- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2023/HS-ST ngày 21-02-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa về phần Trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nghiêm Trọng P.
2. Về trách nhiệm hình sự:
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 168; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:
Nghiêm Trọng P 12 (mười hai) năm về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30-8-2022 (được trừ thời gian tạm giam từ ngày 09-10-2021 đến ngày 09-12-2021).
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23;
Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Nghiêm Trọng P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội cướp tài sản số 212/2023/HS-PT
Số hiệu: | 212/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về