Bản án về tội cướp giật tài sản (túi vải đựng tiền) số 189/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 189/2022/HS-ST NGÀY 27/10/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27/10/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, thành phố H xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 165/2022/HSST ngày 10/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/QĐXXST-HS ngày 12/10/2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN ĐỨC C, sinh năm 1996; Nơi thường trú: Thôn GTB, xã KS, huyện GL, thành phố H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức H và bà Nguyễn Thị Tuyết Nh; Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: 02 tiền án (chưa dược xóa án tích): Bản án số 80/HSST ngày 09/10/2015, Tòa án nhân dân huyện VL, tỉnh Hưng Yên xử phạt Nguyễn Đức C 02 năm 03 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Hiện C chưa thi hành xong khoản tiền bồi thường cho người bị hại. Bản án số 212/HSST ngày 21/12/2020, Tòa án nhân dân huyện GL, H xử phạt C 12 tháng tù về tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản. Ngày 04/3/2022, chấp hành xong hình phạt tù; Nhân thân: Ngày 17/11/2020 Công an huyện VL, tỉnh Hưng Yên xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Bị tạm giữ từ ngày 23/7/2022 đến ngày 01/8/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 2 - Công an thành phố H. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1931. Trú tại: Thôn GTB, xã KS, huyện GL, thành phố H. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin vắng mặt).

*Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị Tuyết Nh, sinh năm 1972; Trú tại: Thôn GTB, xã KS, huyện GL, thành phố H. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền mua ma túy sử dụng nên khoảng 09 giờ ngày 21/7/2022, Nguyễn Đức C nhìn thấy bà Nguyễn Thị H đang đi trên đường làng thôn GTB, xã KS, GL tay cầm túi nilon trong có túi đựng tiền nên đã nảy sinh ý định cướp giật túi tiền của bà H. C đi bộ theo bà H, khi đến đoạn đường trước cửa nhà số 38 đường thôn GTB, xã KS, C đến gần bắt chuyện với bà H rồi lợi dụng lúc sơ hở C lùi lại phía sau bà H dùng tay phải giật chiếc túi nilon màu đỏ bà H cầm trên tay, bên trong có 1.700.000đồng rồi bỏ chạy, vứt lại túi nilon, chỉ cầm túi vải đựng tiền. Khi đến gần trường mầm non KS, C lấy 1.700.000đồng sau đó ném túi vải xuống mương nước ven đường. Sau đó C bắt tăcxi của người không quen biết lên khu vực TS, Bắc Ninh để mua ma túy của người không rõ nhân thân hết 1.100.000đồng. C tiếp tục bảo lái xe tăcxi chở về nhà và thanh toán hết 600.000đồng tiền xe. Số ma túy mua được, C đã sử dụng hết. Ngày 23/7/2022 biết việc cướp giật túi tiền của bà H đã bị phát hiện nên C đã đến Công an xã KS đầu thú.

Tại kết luận định giá tài sản số 121 ngày 11/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện GL kết luận: 01 chiếc túi vải hoa màu tím kích thước 18x10cm đã qua sử dụng có giá trị 0 đồng.

Ngày 24/7/2022 bà Nh là mẹ bị cáo C đã bồi thường trả bà H 1.700.000đồng. Bà H đã nhận tiền và không có yêu cầu gì. Bà Nh không yêu cầu C phải trả lại số tiền đã bồi thường thay C.

Người bán ma túy cho C do không xác định được nhân thân nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Bản cáo trạng số 165/CT-VKS ngày 07/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GL truy tố Nguyễn Đức C về tội Cướp giật tài sản theo điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

*Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Vấn đề trả 1.700.000đồng cho bà H là tự ý mẹ bị cáo làm, bị cáo không biết.

*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GL giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Đức C từ 38 tháng đến 44 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/7/2022 - Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo - Về dân sự: Không phải giải quyết.

Bị cáo không có tranh luận gì bổ sung thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức C khai nhận toàn bộ nội dung vụ việc phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 21/7/2022, tại đường thôn GTB, xã KS, huyện GL, H, bị cáo Nguyễn Đức C đã đi bộ cướp giật chiếc túi nilon màu đỏ bên trong có túi vải đựng 1.700.000đồng của bà Nguyễn Thị H. Bị cáo phạm tội khi có 02 tiền án chưa được xóa án tích. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Cướp giật tài sản, vi phạm điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Việc bị cáo bất ngờ cướp giật túi tiền khi cụ H (91 tuổi) cầm trên tay, đang trên đà di chuyển là rất nguy hiểm, có thể làm cụ H bị ngã gây thương tích. Ngoài ra, việc bị cáo ngang nhiên cướp giật tài sản giữa ban ngày, của chính người trong thôn quen biết nhau đã gây tâm lý bất an về an ninh, trật tự trong nhân dân. Bị cáo vừa chấp hành xong hình phạt tù về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội Cướp giật tài sản là thể hiện thái độ rất coi thường pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Về tình tiết tăng nặng, bị cáo đã phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; gia đình bồi thường giúp cho người bị hại, bị cáo đầu thú sau khi phạm tội. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[2] Về những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cơ bản phù hợp với kết quả nghị án của Hội đồng xét xử.

[3] Đánh giá về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, không có ai khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm ổn định.

[5] Về dân sự: Bà Nguyễn Thị Tuyết Nh đã bồi thường 1.700.000đồng trả cụ H thay bị cáo C. Bà Nh không yêu cầu bị cáo C phải trả lại số tiền đó, cụ H không có yêu cầu gì, nên không phải xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào:

- Điểm i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự

- Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội: “ Cướp giật tài sản” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức C 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/7/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Không phải xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Án xử công khai, sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án vắng mặt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản (túi vải đựng tiền) số 189/2022/HS-ST

Số hiệu:189/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về