Bản án về tội cướp giật tài sản số 57/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 đối với:

* Bị cáo: Nguyễn Tuấn V, sinh ngày 19/9/1995 tại tỉnh Tiền Giang; Địa chỉ: khu phố 1, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang. Chỗ ở hiện nay: ấp G, xã P, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: N; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Hồng V1, sinh năm 1977; bị cáo chưa có vợ, con; bị cáo có 03 anh chị em; tiền sự: Không; tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/7/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Huyền T1, sinh ngày 16/4/1995 (có mặt).

Địa chỉ: ấp 1, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Hồng V1, sinh năm 1977 (có mặt).

Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

2. Anh Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 25/4/2Y (có mặt)

Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Người làm chứng:

Anh Đặng Minh T2, sinh ngày 28/7/1990 (có mặt).

Địa chỉ: thôn H, xã Q, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.

Chỗ ở hiện nay: ấp 1, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 17/7/2023, Nguyễn Tuấn V điều khiển xe 63B8- X.47, một mình lưu thông trên đường ADP hướng về đường tỉnh 866B. Khi đến đường tỉnh 866B, Nguyễn Tuấn V thấy anh Đặng Minh T2, sinh năm 1990, điều khiển xe Cup biển số 72AA- Y.68 chở chị Nguyễn Thị Huyền T1, sinh năm 1995 ngồi sau bấm điện thoại loại Iphone 13 Pro Max 128GB, lưu thông về hướng khu công nghiệp Long Giang, ngược chiều với phương tiện V điều khiển. Nảy sinh ý định giật điện thoại di động trên tay chị T1 để bán lấy tiền tiêu xài, V điều khiển xe 63B8- X.47 quay đầu để lưu thông cùng chiều với xe 72AA- Y.68 và giữ khoảng cách 50 mét. Khi đến đoạn thuộc ấp 5, xã Tân Lập 1, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Nguyễn Tuấn V điều khiển xe 63B8- X.47 vượt lên áp sát bên trái xe 72AA- Y.68, dùng tay phải giật chiếc điện thoại trên tay chị T1 đang cầm, chuyển điện thoại giật được vào 02 chân kẹp dính chiếc điện thoại lại và nhanh chóng tăng tốc xe 63B8- X.47 tẩu thoát về hướng cầu Kinh Năng chạy về phòng trọ số 13- Nhà trọ “Mười Đề” tại ấp Giáp Nước, xã Phước Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Khi về đến phòng trọ, Nguyễn Tuấn V kiểm tra tài sản giật được và biết đây là điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, đang khóa màn hình dạng 6 chữ số, không sử dụng được nên V tháo vứt bỏ sim, tắt nguồn chiếc điện thoại nhằm không bị định vị và giấu trong phòng trọ.

Chị Nguyễn Thị Huyền T1 đến Công an xã Tân Lập 1 trình báo vụ việc nêu trên. Qua phối hợp cơ quan điều tra, trích xuất dữ liệu camera an ninh trên địa bàn, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Phước xác định Nguyễn Tuấn V là người cướp giật tài sản của chị T1 nên tiến hành bắt, giữ và khám xét khẩn cấp chỗ ở của V.

Tại kết luận định giá tài sản số 476/KL-HĐĐGTS ngày 27 tháng 7 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Phước xác định: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE; Tên kiểu máy iPhone 13 Pro Max 128 GB; Số máy: 3J796VN/A; Số sêri: V9QHHGC79F; Số IMEI: 353652734997571; Số IMEI2: 353652734558134; Dung lượng bộ nhớ 128GB, đã qua sử dụng có giá trị còn lại tại thời điểm ngày 17/7/2023, thành tiền là 19.791.000 đồng.

Vật chứng, tài sản thu giữ và xử lý:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE. Tên kiểu máy iPhone 13 Pro Max 128 GB. Số máy: 3J796VN/A. Số sêri: V9QHHGC79F. Số IMEI: 353652734997571. Số IMEI2: 353652734558134. Dung lượng bộ nhớ 128GB.

Điện thoại đã qua sử dụng.

- 01 (một) hộp giấy là hộp đựng điện thoại di động. Trên hợp có in thông tin như sau: “iPhone 13 Pro Max- Năm sản xuất 2021. 3J796VN/A iPhone 13 Pro Max, 128GB. Số IMEI: 353652734997571”. Chiếc hộp đã qua sử dụng.

- 01 (một) biên nhận ngày 14/4/2023 của Cửa hàng điện thoại di động giá rẻ- MST 1101916464 số 99 Trần Văn N, P3, TP. Tân An, Long An thể hiện nhận của Nguyễn Thị Huyền T1 về khoản mua iphone 13 prox max, số IMEI: 353652734997571, ngày nhận 14/4/2023 giá tiền 21.990.000đ.

Các vật chứng trên Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chị T1 xong.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A23; kiểu máy: SM- A235F/DS. Số IMEI1: 353220822032089. Điện thoại đã dã sử dụng và không lắp thẻ sim.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO - Y15S. Số IMEI1: 867251050299784. Điện thoại đã qua sử dụng và không lắp thẻ sim.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A31; kiểu máy SM- A315G/DS. Số IMEI1: 354565117690424. Điện thoại đã qua sử dụng.

- 01 (một) chiếc quần jean nam giới; nhãn hiệu THE SAMPLE; chiếc quần jean màu xanh; đã qua sử dụng.

- 01 (một) xe mô tô 2 bánh biển số 63B8-X.47; nhãn hiệu SUZUKI; số loại SATRIA; màu sơn đen- đỏ. Số máy: CGA1ID 204718. Số khung: MH8DL11 AZKJ 204683. Xe đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Tuấn V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Huyền T1 khai: Vào khoảng 12 giờ 10 phút ngày 17/7/2023, chị được chồng chị là anh Đặng Minh T2 điều khiển xe Cúp màu xanh biển số 72AA-Y.68 chở chị từ thành phố Mỹ Tho về xã Tân Lập 1. Trên đường về đến trước cửa tiệm Tiện Tuấn tại ấp 5, xã Tân Lập 1, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang thì bị một thanh niên (sau này chị mới biết là bị cáo V) điều khiển xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu SUZUKI SATRIA màu đỏ – đen, đi một mình. Chạy từ phía sau lên, áp sát bên trái xe của vợ chồng chị giật chiếc điện thoại iPhone 13 Pro Max lúc chị đang cầm bắm trên tay. Sau khi bị cáo V giật được điện thoại của chị thì điều khiển xe chạy về hướng đường tỉnh 878 còn xe của vợ chồng chị vẫn lưu thông bình thường, không bị té ngã. Chị xác định chiếc điện thoại iPhone 13 Pro Max mà bị cáo V cướp giật của chị là tài sản cá nhân của chị và chị đã nhận lại điện thoại trên vào ngày 14/11/2023. Vào ngày 12/11/2023 chị và mẹ của bị cáo V là bà Nguyễn Hồng V1 đã đạt được thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho chị là 2.000.000 đồng, chị đã nhận đủ số tiền. Vì vậy, chị không yêu cầu gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Hồng V2 khai: Bà là mẹ ruột của bị cáo V. Số tiền 2.000.000 đồng là tiền của bà cho bị cáo V để bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị Huyền T1. Bà không yêu cầu bị cáo V trả lại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

2. Anh Nguyễn Tuấn K khai: Anh là em ruột của bị cáo Nguyễn Tuấn V. Anh đi chấp hành án có gửi lại cho bị cáo giữ 1 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A23; kiểu máy: SM- A235F/DS. Số IMEI1: 353220822032089. Anh yêu cầu được nhận lại chiếc điện thoại trên.

* Người làm chứng: Anh Đặng Minh T2 khai: Vào khoảng 12 giờ 10 phút ngày 17/7/2023, anh điều khiển xe Cúp màu xanh biển số 72AA-Y.68 chở vợ anh là chị Nguyễn Thị Huyền T1 từ thành phố Mỹ Tho về xã Tân Lập 1. Trên đường về đến trước cửa tiệm Tiện Tuấn tại ấp 5, xã Tân Lập 1, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang thì bị một thanh niên (sau này anh mới biết là bị cáo V) điều khiển xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu SUZUKI SATRIA màu đỏ – đen, đi một mình. Chạy từ phía sau lên, áp sát bên trái xe của vợ chồng anh giật chiếc điện thoại iPhone 13 Pro Max lúc chị T1 đang cầm bắm trên tay. Sau khi bị cáo V giật được điện thoại của chị T1 thì điều khiển xe chạy về hướng đường tỉnh 878 còn xe của vợ chồng anh vẫn lưu thông bình thường, không bị té ngã.

Tại Cáo trạng số 55/CT-VKSTP ngày 27/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn V về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Viện kiểm sát huyện Tân Phước phát biểu:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và khẳng định việc truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng số 55/CT-VKSTP ngày 27/11/2023 là đúng người, đúng tội không có gì thay đổi và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 50, 54 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V từ 02 năm đến 03 năm tù.

- Về vật chứng của vụ án:

Đề nghị tịch thu sung vào công quỹ nhà nước 01 (một) xe mô tô 2 bánh biển số 63B8-X.47; nhãn hiệu SUZUKI; số loại SATRIA; màu sơn đen-đỏ. Số máy: CGA1ID 204718. Số khung: MH8DL11 AZKJ 204683. Xe đã qua sử dụng.

Đề nghị trả lại cho Nguyễn Tuấn K:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A23; kiểu máy: SM- A235F/DS. Số IMEI1: 353220822032089.

Đề nghị trả lại cho bị cáo:

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO - Y15S. Số IMEI1: 867251050299784.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A31; kiểu máy SM- A315G/DS. Số IMEI1: 354565117690424.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc quần jean nam giới; nhãn hiệu THE SAMPLE; chiếc quần jean màu xanh;

- Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Huyền T1 yêu cầu bị cáo V bồi thường thiệt hại số tiền 2.000.000 đồng. Bị cáo có tác động mẹ ruột là bà Nguyễn Hồng V1 đã bồi thường thay cho bị cáo. Chị T1 đã nhận đủ tiền bồi thường, có đơn tự nguyện xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

- Bị hại chị Nguyễn Thị Huyền T1 trình bày đã nhận đủ số tiền bồi thường thiệt hại từ gia đình bị cáo, nên không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Hồng V1 không tranh luận, bà tự nguyện cho tiền bị cáo để bồi thường, bà không yêu cầu bị cáo trả lại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Anh Nguyễn Tuấn K khai yêu cầu được nhận lại chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A23; kiểu máy: SM- A235F/DS. Số IMEI1: 353220822032089.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy mình sai, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, nhận thấy anh Nguyễn Tuấn K là chủ sở hữu 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A23; kiểu máy: SM- A235F/DS. Số IMEI1: 353220822032089 mà Công an đã thu giữ, nên Hội đồng xét xử đưa anh K vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2]. Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[3.1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Tuấn V đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình là vào khoảng 12 giờ ngày 17/7/2023, trên Đường tỉnh 866B đoạn đường thuộc ấp 5, xã Tân Lập 1, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, Nguyễn Tuấn V một mình điều khiển xe 63B8- X.47, vượt lên và áp sát bên trái xe 72AA- Y.68 do anh Đặng Minh T2 điều khiển chở phía sau chị Nguyễn Thị Huyền T1 lưu thông phía trước cùng chiều. V dùng tay phải giật chiếc điện thoại loại Iphone 13 Pro Max 128GB, trên tay chị T1 đang cầm, V nhanh chóng tăng tốc xe 63B8- X.47 tẩu thoát, mang điện thoại về cất giấu tại phòng trọ thì bị phát hiện bắt giữ. Tài sản bị cướp giật có giá trị thành tiền là 19.791.000 đồng. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[3.2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của người bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa hôm nay. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự:

Điều 171 Bộ luật Hình sự quy định: “Điều 171. Tội cướp giật tài sản 1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm.” Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và đúng pháp luật.

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại. Nhằm mục đích muốn có tiền tiêu xài, phục vụ cho lợi ích cá nhân, ý thức lười lao động, nhưng lại thích hưởng thụ bị cáo đã có hành vi điều khiển xe mô tô 02 bánh với tốc độ cao, áp sát, giật điện thoại di động của chị T1 đang cầm trên tay khi chị T1 đang ngồi phía sau xe do anh T2 điều khiển. Hành vi này của bị cáo V xâm phạm trực tiếp đến quyền tài sản và khả năng rất cao dẫn đến nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe của chị T1, anh T2 khi đang lưu thông trên đường bằng xe mô tô 2 bánh; Với cách thức, thủ đoạn thực hiện hành vi cướp giật tài sản nêu trên, thì đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo V, quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Hành vi cướp giật tài sản của bị cáo làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án, gây tư tưởng hoang mang, lo lắng, bất an trong quần chúng nhân dân. Do đó, bị cáo V phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra xét thấy, bị cáo Nguyễn Tuấn V thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tự nguyện bồi thường thiệt hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự - Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự.

Với tình tiết nêu trên, Tòa án cân nhắc khi lượng hình để tuyên xử mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng, nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để áp dụng xét xử đối với bị cáo dưới mức khung hình phạt liền kề của điều luật quy định. Xét cần thiết phải cách ly bị cáo V khỏi đời sống chung với xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và nhằm răn đe, phòng ngừa chung.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng đối với bị cáo.

[7]. Về vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE. Tên kiểu máy iPhone 13 Pro Max 128 GB. Số máy: 3J796VN/A. Số sêri: V9QHHGC79F. Số IMEI: 353652734997571. Số IMEI2: 353652734558134. Dung lượng bộ nhớ 128GB.

Điện thoại đã qua sử dụng.

- 01 (một) hộp giấy là hộp đựng điện thoại di động. Trên hợp có in thông tin như sau: “iPhone 13 Pro Max- Năm sản xuất 2021. 3J796VN/A iPhone 13 Pro Max, 128GB. Số IMEI: 353652734997571”. Chiếc hộp đã qua sử dụng.

- 01 (một) biên nhận ngày 14/4/2023 của Cửa hàng điện thoại di động giá rẻ- MST 1101916464 số 99 Trần Văn N, P3, TP. Tân An, Long An thể hiện nhận của Nguyễn Thị Huyền T1 về khoản mua iphone 13 prox max, số IMEI: 353652734997571, ngày nhận 14/4/2023 giá tiền 21.990.000đ.

Hội đồng xét xử xác định điện thoại di động iPhone 13 Pro Max; Hộp đựng điện thoại và biên nhận tiền nêu trên là tài sản hợp pháp của chị T1 nên Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chị T1 xong, đúng quy định pháp luật.

- 01 (một) xe mô tô 2 bánh biển số 63B8-X.47; nhãn hiệu SUZUKI; số loại SATRIA; màu sơn đen- đỏ. Số máy: CGA1ID 204718. Số khung: MH8DL11 AZKJ 204683, xe đã qua sử dụng. Xét thấy, đây là công cụ mà bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và thuộc quyền sở hữu của vị cáo nên tịch thu xung vào công quỹ nhà nước.

- 01 (một) chiếc quần jean nam giới; nhãn hiệu THE SAMPLE; chiếc quần jean màu xanh; đã qua sử dụng. Đây là quần mà bị cáo V mặc vào ngày 17/7/2023, khi thực hiện việc cướp giật nêu trên. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không yêu cầu được nhận lại. Xét thấy, vật chứng trên không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A23; kiểu máy: SM- A235F/DS. Số IMEI1: 353220822032089. Điện thoại đã qua sử dụng và không lắp thẻ sim, xác định của anh Nguyễn Tuấn K gửi bị cáo giữ dùm, không liên quan đến vụ án. Anh K yêu cầu được nhận lại, nên Hội đồng xét xử trả lại cho anh Kiệt.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO - Y15S. Số IMEI1: 867251050299784. Điện thoại đã qua sử dụng và không lắp thẻ sim; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A31; kiểu máy SM- A315G/DS. Số IMEI1: 354565117690424. Điện thoại đã qua sử dụng. Hội đồng xét xử xác định điện thoại di động nhãn hiệu VIVO –Y15S và điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A31 là tài sản của bị cáo V, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên trả lại cho bị cáo.

[8]. Về trách nhiệm dân sự:

Chị Nguyễn Thị Huyền T1 đã nhận số tiền bồi thường thiệt hại là 2.000.000 đồng xong và không có yêu cầu gì khác; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Hồng V1 không có yêu cầu gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. [10]. Xét phân tích và đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội “Cướp giật tài sản”.

1. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 50, 54 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 19/7/2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu xung vào công quỹ nhà nước 01 (một) xe mô tô 2 bánh biển số 63B8-X.47; nhãn hiệu SUZUKI; số loại SATRIA; màu sơn đen - đỏ. Số máy: CGA1ID 204718. Số khung: MH8DL11 AZKJ 204683. Xe đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Nguyễn Tuấn K 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A23, kiểu máy: SM- A235F/DS, số IMEI1: 353220822032089. Điện thoại đã qua sử dụng và không lắp thẻ sim.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO - Y15S.

Số IMEI1: 867251050299784. Điện thoại đã qua sử dụng và không lắp thẻ sim.

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A23 và điện thoại di động nhãn hiệu VIVO - Y15S được niêm phong bằng cách để vào túi niêm phong ký hiệu NS2, mã số 2002506 trên túi niêm phong có chữ ký của Phan Bắc Lin, Nguyễn Tuấn V, Nguyễn Hồng V và Lê Văn M.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A31, kiểu máy SM- A315G/DS, số IMEI1: 354565117690424. Điện thoại đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc quần jean nam giới; nhãn hiệu THE SAMPLE; chiếc quần jean màu xanh; đã qua sử dụng.

Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ. Thực hiện xử lý vật chứng khi án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Tuấn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Tuấn V; Bị hại chị Nguyễn Thị Huyền T1; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Hồng V1, anh Nguyễn Tuấn K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 57/2023/HS-ST

Số hiệu:57/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về