Bản án về tội cướp giật tài sản số 55/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 55/2022/HS-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo: Sầm Văn Th, tên gọi khác: Không, sinh năm 1997, tại huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sầm Văn D và bà Lô Thị H; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10 tháng 3 năm 2022 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Tr, chức vụ: Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý chi nhánh số 2 - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước tỉnh Nghệ An, có mặt.

- Bị hại:

1. Cháu Phan Lý L, sinh năm 2011;

Người đại diện của cháu Phan Lý L: Anh Phan Lý Ngọc, sinh năm 1989;

Đều trú tại: Xóm Ph, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An, Vắng mặt;

2. Cháu Đinh Linh Nh, sinh năm: 2015, vắng mặt;

Người đại diện của cháu Đinh Linh Nh: Anh Đinh Văn Th, sinh năm 1989, có mặt và chị Vy Thị L, sinh năm 1987, vắng mặt; Đều trú tại: Bản L, xã Tr, huyện Q, tỉnh Nghệ An;

3. Cháu Vi Thị H, sinh năm, 2007;

Người đại diện của cháu Vi Thị H: Anh Vi Văn H, sinh năm: 1978, chị Vi Thị H, sinh năm 1980, vắng mặt;

Trú tại: Bản T, xã Đ, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1989;

Trú tại: Khối T S, thị trấn K, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ thứ nhất: Chiều ngày 03/01/2022, Sầm Văn Th, trú tại bản H, xã C, huyện Quỳ Châu điều khiển xe mô tô BKS 37G1-xxxxx chở theo bạn gái là Lô Thị D - Sinh năm 1994, trú tại bản T, xã T, huyện Q đến khu vực xóm Ph, xã M, huyện Q thì nhìn thấy cháu Phan Lý L, sinh ngày 30/5/2011 đang cầm điện thoại di động ngồi chơi ở sân nhà, Th nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của cháu L nên dựng xe đi bộ đến giả vờ hỏi đường, sau đó giật lấy chiếc điện thoại trên tay cháu L rồi nhanh chóng lên xe tẩu thoát. Giật được điện thoại Thìu đi đến tiệm cầm đồ của anh Nguyễn Đình Tr trú tại khối Tr, thị trấn K, huyện Q bán được 200.000đ tiêu xài hết.

Vụ thứ hai: Tối ngày 18/02/2022, Sầm Văn Th điều khiển xe mô tô BKS 37G1-xxxxx đi một mình lên bản Liên Hợp, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong chơi. Trên đường đi thì nhìn thấy cháu Đinh Linh Nh, sinh ngày 09/11/2015 đang cầm điện thoại di động chơi ở trong nhà. Th quan sát xung quanh không thấy có ai ở nhà nên dựng xe máy trước cửa nhà rồi vào nhà giật lấy chiếc điện thoại trên tay cháu Nh và nhanh chóng lên xe máy tẩu thoát. Giật được điện thoại của cháu Nh, Th đi đến tiệm cầm đồ của anh Nguyễn Đình Tr trú tại khối Tr, thị trấn K bán được 500.000đ tiêu xài hết.

Vụ thứ ba: Chiều ngày 03/3/2022, Sầm Văn Th lại điều khiển xe mô tô BKS 37G1-xxxxx chở theo bạn gái là Lô Thị D đi đến khu vực bản Tục P, xã Đồng V, huyện Q, trên đường đi gặp cháu Vi Thị H, sinh ngày 22/6/ 2007 đang đạp xe đi trên đường, trong giỏ xe đạp có 01 chiếc điện thoại di động nên Th quay xe lại trước đầu xe đạp cháu H rồi xuống xe giật lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần lên xe máy tẩu thoát. Giật được điện thoại Thìu đi đến tiệm cầm đồ của anh Nguyễn Đình Tr trú tại khối Tr, thị trấn K, huyện Q bán được 700.000đ tiêu xài hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản thì anh Phan Lý Ng, trú tại xóm Ph, xã M (bố của cháu Phan Lý L); anh Đinh Văn Th, trú tại bản L, xã Tr (bố của cháu Đinh Linh Nh) và anh Vi Văn H, trú tại bản T, xã Đồng V (bố của cháu Vi Thị H) làm đơn trình báo đến cơ quan chức năng.

Qua điều tra xác minh, đến ngày 10/3/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Phong đã thi hành lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Sầm Văn Th và thu giữ 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA, màu xanh trắng BKS 37G1-xxxxx.

Tại hiệu cầm đồ của anh Nguyễn Đình Tr ở khối Tr, thị trấn K, huyện Q. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Phong thu giữ được:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPOP A33 màu trắng, màn hình cảm ứng;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y15 màu xanh, màn hình cảm ứng;

Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 6 Plus màu xám, màn hình cảm ứng sau khi cướp giật của cháu Nh, Thìu khai đã đem đi bán tại hiệu cầm đồ của anh Nguyễn Đình Tr ở khối Tr, thị trấn K, huyện Q, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Phong đã tiến hành khám xét nhưng không thu giữ được. Qua trình điều tra anh Tru khai nhận không được mua bán, trao đổi chiếc điện thoại nói trên như lời khai của Sầm Văn Th.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Quế Phong kết luận:

“1. 1 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPOP A33 màu trắng, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng có trị giá 500.000đ (năm trăm nghìn) đồng;

2. 1 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ViVo Y15 màu xanh, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng có trị giá 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn) đồng;

3. 1 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu xám, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng có trị giá 4.500.000đ (bốn triệu năm trăm nghìn) đồng” Tại cáo trạng số 58/CT-VKS-QP ngày 28-6-2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Sầm Văn Th về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo Sầm Văn Th đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội là đúng như nội dung trong bản cáo trạng đã công bố. Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, đúng tội, không oan sai.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sầm Văn Th phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Sầm Văn Th từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Và không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Phong trả lại cho cháu Phan Lý Long 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A33 màu trắng, trả lại cho cháu Vi Thị H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO Y15 màu xanh;

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe EXCITER, màu xanh trắng BKS 37G1-xxxxx bị thu giữ, Sầm Văn Th dùng để đi cướp giật điện thoại, nhưng là tài sản thuộc quyền sở hữu của ông Sầm Văn D; ông Duy không biết việc Thìu dùng xe máy để đi cướp giật tài sản nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Sầm Văn D.

Đối với Lô Thị Dung, là người đi cùng Sầm Văn Th vào các ngày 03/01/2022 và 03/3/2022. Cơ quan CSĐT đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng hiện nay Dung không có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, nếu có đủ căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

Đối với anh Nguyễn Đình T có hành vi mua 02 chiếc điện thoại di động với Sầm Văn Th, nhưng anh Trung không biết đó là tài sản đi cướp giật mà có nên hành vi không cấu thành tội phạm và anh Trung cũng không yêu cầu Sầm Văn Th trả lại số tiền mà anh đã bỏ ra mua 02 chiếc điện thoại nói trên.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại và người đại diện hợp pháp của các bị hại, người liên quan không yêu cầu bị cáo Sầm Văn Th bồi thường dân sự.

Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo từ 03 đến 03 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thấy hành vi Cướp giật tài sản là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa, bị hại, đại diện bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bản kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được, thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Sầm Văn Th là người đã thành niên, có đủ sức khỏe làm việc để tạo thu nhập cho bản thân nhưng với bản tính tham lam, động cơ, mục đích vụ lợi. Để có tiền tiêu xài phục vụ cho lợi ích cá nhân nên bị cáo đã nảy sinh ý định thực hiện hành vi Cướp giật tài sản người đi đường nên vào các ngày 03/01/2022, tại xóm Phong Quang, xã Mường Nọc bị cáo có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPOP A33 màu trắng, màn hình cảm ứng của cháu Phan Lý Long có trị giá 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng. Ngày 18/02/2022 tại bản Liên Hợp, xã Tri Lễ bị cáo có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu xám, màn hình cảm ứng của cháu Đinh Linh Nhi có trị giá 4.500.000 (Bốn triệu năm trăm nghìn) đồng. Và ngày 03/3/2022, tại bản Tục Pang, xã Đồng Văn bị cáo có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ViVo Y15 màu xanh, màn hình cảm ứng của cháu Vi Thị H có trị giá 1.200.000 (Một triệu hai trăm nghìn) đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là: 6.200.000 (Sáu triệu hai trăm nghìn) đồng. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Sầm Văn Th phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự. Bị cáo thực hiện các hành vi cướp giật tài sản của các bị hại Phan Lý Long, sinh năm 2011, Đinh Linh Nhi, sinh năm 2015 và Vi Thị H, sinh năm 2007 do đó thuộc trường hợp phạm tội đối với người dưới 16 tuổi nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

Hành vi trái pháp luật của bị cáo Sầm Văn Th là nguy hiểm cho xã hội, với bản tính tham lam, động cơ, mục đích vụ lợi, muốn có tiền để tiêu xài mà không phải bỏ công sức lao động của mình làm ra nên bị cáo nảy sinh ra ý định thực hiện hành vi cướp giật tài sản người đi đường chiếm đoạt tài sản để bán lấy tiền tiêu xài nhằm phục vụ thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Bị cáo thực hiện việc chiếm đoạt tài sản một cách công khai, táo bạo, bất ngờ và dứt khoát rồi nhanh chóng tẩu thoát. Hành vi của bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo cũng thừa biết tài sản của người khác là do công sức lao động làm ra được pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm khi chưa có sự đồng ý của chủ sở hữu. Hành vi của bị cáo gây mất trật tự ở địa phương. Cho nên, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc buộc cách ly khỏi xã hội đối với bị cáo trong thời gian nhất định để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, cần xem xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Trong một thời ngắn bị cáo đã thực hiện nhiều lần cùng một loại hành vi cướp giật tài sản. Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo được UBND xã C tặng giấy khen có thành tích xuất sắc trong công tác tìm kiếm cứu nạn, nên xem xét giảm cho bị cáo một phần về hình phạt. Xét thấy, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”; Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn. Xét thấy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Phong đề nghị xử phạt bị cáo Sầm Văn Th từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 đến 03 năm 06 tháng tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; người bào chữa là chưa hợp lý.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại, đại diện hợp pháp của các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo Sầm Văn Th bồi thường dân sự gì, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5] Người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Sầm Văn Th phạm tội “Cướp giật tài sản”;

Xử phạt: Bị cáo Sầm Văn Th 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 10 tháng 3 năm 2022.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc Sầm Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại, đại diện bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo đối với bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày được tống đạt hơp lê.̣ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 55/2022/HS-ST

Số hiệu:55/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về