Bản án về tội cướp giật tài sản số 254/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 254/2022/HS-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 07/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 272/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 285/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Phan Sỹ Phúc A - Sinh năm 1986 tại Thanh Hóa; Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở: SN TB, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phan Sỹ T và bà: Trần Thị T; vợ: Lê Thị H và có 03 con (con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2019); tiền án, tiền sự: không; nhân thân: năm 2017 bị Công an phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/5/2022 tại nhà tạm giữ Công an thành phố Thanh Hóa, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Cháu Nguyễn Trà M – Sinh ngày 18/01/2006 (vắng) Trú tại: SN BH, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Nguyễn Mạnh Hùng – (vắng) Trú tại: SN 72 Lương Đắc Bằng, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Lương Thanh V - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thanh Hóa.

Địa chỉ: Số 32 Đại Lộ Lê Lợi, Phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Thế T - sinh năm 1991(vắng) Trú tại: Số nhà 235B Nguyễn Trãi, phường Tân Sơn, Tp. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

+ Bà Trần Thị T – Sinh năm 1957 (có mặt) Trú tại: SN TB, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 03/3/2022, Phan Sỹ Phúc A trong lúc điều khiển xe moto nhãn hiệu HONDA SUPERDREAM, biển kiểm soát 36B5-012.46 lưu thông trên đường Lương Đắc Bằng, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa phát hiện thấy cháu Nguyễn Trà M – sinh ngày 18/01/2006 trú tại số 72 đường Lương Đắc Bằng, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa để chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu hồng trong túi hông bên trái ba lô đeo trên lưng điều khiển xe đạp điện đi cùng chiều phía trước. Phúc A nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản nên điều khiển xe moto từ phía sau, áp sát xe cháu Trà M, nhanh chóng lấy tay với lấy chiếc điện thoại trong hông túi của ba lô. Khi Phúc A đang cầm điện thoại trên tay thì bị cháu Trà M phát hiện, do đó Phúc A tăng ga nhanh chóng bỏ chạy, cháu Trà M đuổi theo nhưng không kịp. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Phúc A mang chiếc điện thoại đến cửa hàng mua bán điện thoại ở số 235B Nguyễn Trãi, phường Tân Sơn, Tp. Thanh Hóa bán cho anh Nguyễn Thế T – sinh năm 1991 với giá 1.000.000 đồng. Khi bán, Phúc A nói điện thoại của mình bị quên mật khẩu không dùng nữa nên bán, anh T đồng ý mua. Số tiền bán điện thoại, Phúc A dùng vào tiều xài cá nhân hết.

Theo báo cáo của cháu Nguyễn Trà M, chiếc điện thoại di động bị cướp giật là Iphone 7 Plus, màu hồng, đã qua sử dụng, có trị giá khoảng 3.700.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 32/KL-HĐĐGTS, ngày 24/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản của UBND TP. Thanh Hóa, kết luận chiếc điện thoại di động IPHONE 7 PLUS, 32GB, màu hồng, được mua lại đã qua sử dụng có giá 3.000.000 đồng.

Sau khi được Cơ quan điều tra thông báo chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu hồng mua của Phan Sỹ Phúc Anh là tài sản do phạm tội mà có, anh Trung đã tự giác giao nộp lại chiếc điện thoại di động cho Cơ quan điều tra.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus màu hồng cho chủ sở hữu hợp pháp là cháu Nguyễn Trà M.

Đối với chiếc xe moto nhãn hiệu Honda superdream biển kiểm soát 36B5- 012.46, đã qua sử dụng là xe của bà Trần Thị T – sinh năm 1957 (mẹ bị cáo), trú tại số 37B Tản Đà, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa (địa chỉ hiện nay là 83 Lê Cảo, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa). Bà Thanh không biết việc Phúc A sử dụng chiếc xe làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho bà T.

Ti bản cáo trạng số: 221/CT - VKS - TPTH ngày 02/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá đã truy tố Phan Sỹ Phúc Anh về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 BLHS.

Ti phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS. Mức hình phạt VKS đề nghị đối với bị cáo là 36 – 42 tháng tù và đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

VKS.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện Trong phần trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, Trợ giúp viên pháp lý đề nghị HĐXX xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật, vì hành vi phạm tội của bị cáo đã rõ ràng, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị hại đã nhận lại tài sản.

Li nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại gì.

[2] Về hành vi phạm tội:

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 03/3/2022, Phan Sỹ Phúc Anh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA SUPERDREAM, biển kiểm soát 36B5-012.46 lưu thông trên đoạn đường Lương Đắc Bằng, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa. Khi đi đến trước SN 75 Lương Đắc Bằng, phường Đông Sơn phát hiện cháu Nguyễn Trà Mi đi xe máy điện cùng chiều phía trước, để chiếc điện thoại di động trong túi ba lô đeo trên lưng, Phúc A điều khiển xe mô tô áp sát dùng tay trái giật chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu hồng trị giá 3.000.000đ của cháu Trà M, sau đó điều khiển xe bỏ chạy và mang đi bán lấy 1.000.000đ tiêu sài cá nhân.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của Phan Sỹ Phúc A có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Phan Sỹ Phúc A điều khiển xe máy đi trên đường phố, chọn thời điểm các cháu học sinh tan trường để tiếp cận bị hại và lợi dụng khi bị hại không chú ý, bị cáo áp sát, bất ngờ giật tài sản một cách nhanh chóng làm cho bị hại không có khả năng giữ được tài sản mình đang quản lý để chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, ảnh hưởng đến tính mạng sức khỏe, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an chung, cần phải xử lý nghiêm minh.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bản thân bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội và được tặng thưởng giấy khen nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng bị cáo có nhân thân xấu, do đó khi quyết định hình phạt cần áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và có tính chất phòng ngừa chung.

[4] Về Phần dân sự:

Theo báo cáo của bị hại, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã nhận lại đầy đủ và không yêu cầu gì. Do đó cần công nhận phần dân sự giữa bị cáo và bị hại đã giải quyết xong.

Đối với số tiền 1.000.000đ Phan Sỹ Phúc Anh bán chiếc điện thoại cho anh Nguyễn Thế Trung, anh Trung không yêu cầu Phúc Anh trả lại số tiền này do đó HĐXX không xem xét.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda superdream biển kiểm soát 36B5-012.46, Phúc Anh làm phương tiện đi cướp giật, chủ sở hữu chiếc xe là bà Trần Thị T – sinh năm 1957 (mẹ bị cáo), trú tại số 37B Tản Đà, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa (địa chỉ hiện nay là 83 Lê Cảo, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa). Bà Thanh không biết việc Phúc Anh sử dụng chiếc xe làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho bà T là phù hợp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Phan Sỹ Phúc A tội: “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Phan Sỹ Phúc A 36 (ba sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/5/2022.

Về dân sự: Công nhận phần dân sự giữa bị cáo, bị hại đã giải quyết xong. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 254/2022/HS-ST

Số hiệu:254/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về