Bản án về tội cố ý gây thương tích và gây rối trật tự công cộng số 181/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 181/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 11 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022, theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 207/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Lê Văn Đ, sinh ngày 04/01/2003 tại tỉnh Bạc Liêu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp L, thị trấn L, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; chỗ ở trước khi bị bắt: 02 đường T, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Trình độ học vấn: 1/12; Nghề nghề: lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; cha tên: Lê Văn L, sinh năm 1980 và mẹ tên: Lê Thị H, sinh năm 1982; gia đình có 03 (ba) anh chị em, bị cáo là con thứ ba;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07/01/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (bị cáo có mặt).

2. Nguyễn Đình Q, sinh năm 1999 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 444/59A đường T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghề: công nhân; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; cha tên: Nguyễn Văn K, sinh năm 1976 và mẹ tên: Nguyễn Thị X, sinh năm 1979; gia đình có 03 (ba) anh chị em, bị cáo là con thứ nhất;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/4/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (bị cáo có mặt).

* Bị hại: Anh Lê Trần Tiến Đ, sinh năm 2003.

Địa chỉ: 171/1 đường N, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Luật sư Phạm Xuân H;

Địa chỉ: 427/3 đường N, phường C, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Người làm chứng:

1. Chị Lê Thị H, sinh năm 1982 Địa chỉ: 67B đường T, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Chị Lê Thị Cẩm T, sinh năm 2001 Địa chỉ: 88/18/3 đường B, phường N, thành V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3. Anh Tôn Thất Cẩm N, sinh năm 07/9/2007 Người đại diện cho anh N: Ông Tôn Thất Quỳnh P.

Địa chỉ: 59 đường L, phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

4. Anh Danh H, sinh năm 2002 Địa chỉ: 268/15A đường T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

5. Anh Nguyễn Gia H, sinh ngày 06/01/2004 Địa chỉ: 35/7 đường N, phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

6. Anh Trần Thanh V, sinh ngày 29/7/2005 - Người đại diện cho anh V: Ông Trần Văn T.

Địa chỉ: 268/20A đường T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

7. Anh D, sinh ngày 01/9/2005 - Người đại diện cho anh Thủ: Bà Lê Thị Kim T.

Địa chỉ: 618/1/1/8 đường T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

8. Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1979 Địa chỉ: 444/59A đường T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

 (Tất cả những người làm chứng đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 30/5/2021, Nguyễn Đình Q tổ chức uống rượu với một số người gồm Lê Trần Tiến Đ (sinh ngày 11/5/2003; chỗ ở số 171/1 đường N, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), Danh T (sinh ngày 01/9/2005; chỗ ở số 462/24 đường T, phường N, thành V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), Nguyễn Gia H (sinh ngày 06/01/2004; Chỗ ở số 35/7 đường N, phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) và N, Ng, Th, X (chưa rõ nhân thân lai lịch). Tất cả cùng ngồi uống rượu tại khu vực trước nhà số 444/67 đường T, phường N, thành phố V. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Q gọi điện thoại cho Võ Đức H (sinh ngày 20/12/ 2004; chỗ ở số 456/11A đường B, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đến để giải Q mâu thuẫn trước đó giữa H và Q. Do nghi ngờ H kêu người lên đánh mình nên Q đã gọi điện thoại cho Trần Thanh V (sinh ngày 29/7/2005; chỗ ở số 268/20A đường T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) nhờ V giúp đỡ. Khi nghe Q nói vậy, V đồng ý đến ngồi nhậu một lúc rồi đi về. Đến 21 giờ cùng ngày, V gọi điện thoại cho Q và nói cho người xuống chở V lên ngồi chơi tiếp nên Q nhờ H chạy xe máy đi đón V. Sau đó, V gọi điện thoại rủ Lê Văn Đ cùng tham gia giúp mình (theo V không biết trước đó giữa Q và H đã nói chuyện hòa giải mâu thuẫn xong). Sau khi nghe V nói, Đ đồng ý rồi đi vào khu vực bếp của phòng trọ (do Đ đang uống rượu cùng bạn tại phòng trọ số 88/18/3 đường Bạch Đằng, phường 5, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) lấy 01 (một) cái kéo bằng kim loại, dài 21,5cm cất giấu trong người rồi đi ra hẻm 88 đường B, phường N, thành phố V đứng chờ H chạy xe đến chở Đ đến chỗ Q. Tại đây, giữa Đ và V lời qua tiếng lại cãi nhau nhưng Q tưởng Đ có lời lẽ xúc phạm mình nên giữa Đ và Q dẫn đến cãi nhau, V can ngăn và Đ bỏ đi hướng về đường T. Thấy vậy, V và H điều khiển xe mô tô bám theo để chở Đ về nhưng Đ không đồng ý. Sau đó, Đ quay trở lại chỗ Q xông vào đánh Q thì Đ lao ra ôm giữ vật ngã Đ xuống đường, Đ chống đỡ vùng dậy đè lên người Đ rồi sử dụng cái kéo mang theo đâm nhiều nhát vào người của Đ gây thương tích. Sau đó, Đ tiếp tục truy đuổi đuổi đánh Q nhưng được mọi người can ngăn giữ lại. Q quay trở lại lấy 01 (một) đoạn gậy tre ở vỉa hè đường dài khoảng 60cm đi đến đánh vào đầu Đ gây thương tích. Sau đó, Đ và Đ được mọi người đưa đi Bệnh viện Vũng Tàu cấp cứu. Đến ngày 07/01/2022, Lê Văn Đ và Nguyễn Đình Q bị cơ quan Công an bắt giữ về hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 347/TgT ngày 04/01/2022 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận đối với Lê Trần Tiến Đ như sau:

Các thương tích còn lại: Phù hợp với tổn thương cơ bản là “vết thủng” được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật cứng nhọn hoặc vật cứng sắc nhọn.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 58% (Năm mươi tám phần trăm).

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 98/TgT ngày 21/3/2022 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: kết luận đối với Lê Văn Đ như sau: Thương tích trên khả năng được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật rắn tầy, tác động vào vị trí thương tích theo hướng từ trên xuống dưới.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 01% (Một phần trăm).

Ngày 07/7/2021, Đ có đơn xin từ chối giám định và không yêu cầu xử lý hình sự đối với Q và tại biên bản hỏi cung bị can ngày 31/3/2022 (sau khi được thông báo Kết luận giám định pháp y về thương tích), Đ vẫn khẳng định không yêu cầu xử lý hình sự đối với Q. Tuy nhiên, hành vi tụ tập ăn nhậu và sử dụng hung khí đuổi đánh nhau của Q đã gây náo loạn khu vực dân cư, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trật tự ở địa phương.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Lê Văn Đ và Nguyễn Đình Q đã khai nhận hành vi phạm tội của minh như đã nêu trên (Bút lục điều tra từ số 67-81 và từ 88-103).

Quá trình điều tra Đ, Q đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

- Vật chứng vụ án thu giữ: 01 (một) cái kéo bằng kim loại, dài 21,5cm, cán bọc nhựa màu đen. Hiện đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quản lý chờ xử lý theo quy định của pháp luật. Riêng đoạn cây tre mà Nguyễn Đình Q sử dụng gây thương tích cho Lê Văn Đ đã vứt bỏ ở ven đường nên không thu hồi được.

- Về phần trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Lê Trần Tiến Đ yêu cầu bị cáo Đ bồi thường chi phí điều trị thương tích, tổn hại sức khỏe và tổn thất tinh thần, các chi phí khác là 208.700.000 đồng, ngoài ra không yêu cầu gì khác.

Bản cáo trạng số 135/CT-VKS ngày 06/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Lê Văn Đ về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự và truy tố bị cáo Nguyễn Đình Q về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Lê Văn Đ về tội “Cố ý gây thương tích” và truy tố bị cáo Nguyễn Đình Q về tội “Gây rối trật tự công cộng”, đồng thời đề nghị:

Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Văn Đ mức án từ 08 (tám) đến 09 (chín) năm tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Q mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) cái kéo bằng kim loại, dài 21,5cm, cán bọc nhựa màu đen.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa Anh Lê Trần Tiến Đ yêu cầu bị cáo Đ bồi thường chi phí điều trị thương tích, tổn hại sức khỏe và tổn thất tinh thần, các chi phí khác với tổng số tiền là 183.700.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ nên đề nghị ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại, buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền trên.

Đối với hành vi Nguyễn Đình Q dùng gậy đánh trúng người Lê Văn Đ gây thương tích cho Đ với tỷ lệ 01% (Một phần trăm) nhưng bị cáo Đ không không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Q về hành vi này.

- Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Đồng ý với quan điểm truy tố về tội danh và khung hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đối với các bị cáo đúng như cáo trạng đã truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo Đ đã được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa. Việc bị hại yêu cầu bồi thường về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Đ là hợp lý, bị cáo cũng đồng ý bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về hình phạt đối với bị cáo Đ thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh và không có ý kiến tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng, các bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Q định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, Q định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Tại phiên tòa, những người làm chứng đều vắng mặt nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra; bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu tham gia phiên tòa không yêu cầu hoãn phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, bản kết luận giám định, lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Do có mâu thuẫn cá nhân trong mối quan hệ xã hội giữa Nguyễn Đình Q và Võ Đ H nên vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 30/5/2022, tại khu vực trước nhà số 444/67 đường T, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Q tổ chức tụ tập đông người (08 người) ngồi uống rượu dẫn đến Lê Văn Đ và Q có lời qua tiếng lại cãi vã định xô xát nhau nên Lê Trần Tiến Đ vào can ngăn ôm Đ lại làm cả 02 (hai) ngã xuống đường, Đ vùng dậy chống trả và sử dụng 01 (một) cái kéo bằng kim loại, dài 21,5cm, cán bọc nhựa màu đen mang theo đâm nhiều nhát vào người Lê Trần Tiến Đ gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 58% (Năm mươi tám phần trăm). Sau đó, Đ và Q tiếp tục đuổi đánh nhau được mọi người can ngăn ôm Đ lại thì Q sử dụng đoạn tre đánh vào vùng đầu của Đ gây thương tích với tỷ lệ là 01% (Một phần trăm) đã gây náo loạn khu vực dân cư, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Hành vi của bị cáo Q đã gây thương tích cho Đ với tỉ lệ thương tật là 01% (một phần trăm).

Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Lê Văn Đ đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Đình Q đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.

Đối với hành vi Nguyễn Đình Q dùng gậy đánh trúng người Lê Văn Đ gây thương tích cho Đ với tỷ lệ 01% (Một phần trăm) nhưng bị cáo Đ không không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Q về hành vi này nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Đình Q.

Đối với đối tượng tên Ninh do có hành vi cùng Q tham gia đánh Lê Văn Đ, do chưa rõ nhân thân lai lịch nên đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, nếu đủ căn cứ xử lý theo quy định.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo:

Hành vi phạm tội các bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi của bị cáo Đ đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được Pháp luật bảo vệ. Sự việc bị cáo Đ gây thương tích cho bị hại cũng một phần do bị hại là người đã ôm bị cáo trước, vì lo sợ nên bị cáo đã rút cây kéo đâm nhiều nhát vào người bị hại.

Hành vi của bị cáo Q rủ rê bạn bè, tụ tập ăn nhậu rồi để xảy ra sự việc gây gỗ đánh nhau đã làm náo loạn trong cộng đồng dân cư, xâm phạm đến trật tự công cộng và ảnh hưởng đến an ninh chính trị tại địa phương.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc để Q định mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với các bị cáo và bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Q có ông nội được tặng thưởng nhiều Huân chương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ để lượng hình đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cái kéo bằng kim loại, dài 21,5cm, cán bọc nhựa màu đen.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa anh Lê Trần Tiến Đ yêu cầu bị cáo Đ bồi thường chi phí điều trị thương tích, tổn hại sức khỏe, tổn thất tinh thần và các chi phí khác (cụ thể: tiền lương cho bị hại trong 06 tháng chưa đi làm được, tiền công người chăm sóc, tiền ăn,…) với tổng số tiền là 183.700.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền trên cho bị hại nên ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, bị cáo Đ có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền 183.700.000 đồng. Ngoài ra anh Đ không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Đối với thương tích Q đã gây ra cho Đ thì Đ không yêu cầu Q phải bồi thường gì.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Đ phải nộp số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 9.185.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích” và bị cáo Nguyễn Đình Q phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

1. Về hình phạt:

1.1. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 07 tháng 01 năm 2022.

1.2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Q 02 (hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 23 tháng 4 năm 2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Lê Văn Đ phải bồi thường cho anh Lê Trần Tiến Đ số tiền là 183.700.000đ (một trăm tám mươi ba triệu, bảy trăm ngàn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chưa thực hiện xong nghĩa vụ thì bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 đối với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cái kéo bằng kim loại, dài 21,5cm, cán bọc nhựa màu đen.

Thực hiện xử lý vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 173/BB.CCTHADS ngày 09/6/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Vũng Tàu.

4. Án phí: Bị cáo Lê Văn Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 9.185.000đ (chín triệu, một trăm tám mươi lăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Đình Q phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, Q định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án,quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích và gây rối trật tự công cộng số 181/2022/HS-ST

Số hiệu:181/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về