TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 39/2023/HS-ST NGÀY 18/07/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 18 tháng 7 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, kết nối với điểm cầu thành phần tại Trại giam Công an tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Hữu K; sinh ngày: 14/4/1991; nơi sinh: xã H, huyện H, tỉnh H; nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Hà; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu L (đã chết) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1958; cư trú: thôn Bì, xã H, huyện H; vợ: Đường Thị Lan H, sinh năm 2000; con: 01 đứa, sinh năm 2019; tiền án: Có 03 tiền án, cụ thể: Ngày 26/02/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 09/2019/HS-ST. Ngày 04/5/2020, bị TAND huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 09/2019 ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, buộc chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 18 tháng tù, tại bản án số 06/2020. Ngày 31/5/2022 bị TAND huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 22/2022/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/2/2023, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giam từ ngày 21/3/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.
- Người bảo chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu K: Ông Nguyễn Khánh Toàn - Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hà Tĩnh. (có mặt).
- Bị hại: Anh Nguyễn Huy H, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Chị Trần Thị T, sinh năm: 1989; địa chỉ: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh H.
vắng mặt.
+ Anh Trần Xuân S, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn P, xã G, huyện H, tỉnh H. vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn P, xã G, huyện H, tỉnh H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu K và anh Nguyễn Huy H có mỗi quan hệ bạn bè thân thiết với nhau, nên vào sáng ngày 10/3/2023 đã rủ nhau cùng đi ăn sáng và hẹn nhau đi hút nước bắt cá tại cánh đồng thuộc xã Gia phố, huyện Hương Khê, nhưng Hiệu không đến làm cho K và anh Sngười đi cùng phải chờ nhiều giờ đồng hồ. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, K và anh S đi uống bia tại thị trấn Hương Khê, K gọi điện cho H đến. Do bức xúc chuyện chờ đợi lúc sáng nên quá trình uống bia, giữa K và H xẩy ra xích mích, cãi cọ lẫn nhau nên H bỏ về, thấy vậy K cũng điều khiển xe mô tô của mình đi về, thấy anh H đi bộ nên đã chở anh H đi cùng. Khi đến thôn 9 xã Hương Long, huyện Hương Khê thì xe của K hết xăng nên K xuổng xe đẩy bộ còn H đi đến quán cắt tóc Biện Hà 2 chơi. Do không thấy anh H và K nghĩ rằng H đi xin xăng để đổ vào xe nên ngồi chờ bên đường một lúc đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày K thấy H đang ngồi chơi trước quán cắt tóc Biện Hà 2 nên K bức xúc đi đến dùng chân đá vào người H, dùng tay xô đẩy trước ngực làm H ngã xuống đống phê liệu ở bãi đất trống thì bị các mảnh vỡ Fibro xi măng va vào vùng mặt đồng thời K cầm một mảnh vỡ Fibro xi măng đánh một phát vào vùng trán làm anh H bị thương chảy nhiều máu. Thấy vậy anh S đến can ngăn Khởi dừng lại. Anh H được người dân đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viên đa khoa huyện Hương Khê từ ngày 10/3/2023 đến ngày 20/3/2023 thì ra viện.
Tại kết luận số 70TgT ngày 17/3/2023 của trung tâm pháp y và giám định y khoa Sở Y tế tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Tý lệ phầm trăm tốn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 10%.
Về vật chứng: Thu giữ tại hiện trường 12 mảnh vỡ Fibro xi măng màu nâu xám, không xác định được hình dạng, bám dính một số chất màu nâu (nghi là Máu). Chi cục thi hành án đang quản lý theo quy định.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Huy H đã nhận số tiền 5.000.000 đồng, anh H không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm.
Tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKS-HK ngày 28/6/2023 của Viện trưởng VKSND huyện Hương Khê truy tố bị cáo Nguyễn Hữu K về tội “ Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Hữu K đã khai nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung trên. Bị cáo không kêu oan, không tranh luận gì và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa có ý kiến: Về tội danh, khung hình phạt và điều luật áp dụng đối với bị cáo là đồng tình; thương tích gây ra cho bị hại đã được bồi thường, hoàn cảnh gia đình thuộc diện hộ nghèo, thành khẩn khai báo, bị hại có đơn xin giám nhẹ hình phạt có nhiều tình tiết giám nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX cho bị cáo được hướng mức hình phạt nhẹ nhất và có thể dưới khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 BLHS;
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Hữu K về tội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 134; điểm b, tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu K từ 24 đến 30 tháng tù. Đồng thời xử lý tang vật và án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu K đã tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo, bị hại với lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 10/3/2023, do Nguyễn Hữu K bức xúc về việc anh Nguyễn Hữu H không giữ lời hứa trước đó là hẹn đi bắt cá nhưng không đi để Nguyễn Hữu K phải chờ đợi nhiều giờ và việc xe mô tô của mình hết xăng nhưng H không đi xin xăng cho K, khi thấy H, K đã dùng chân đá vào người H, sau đó dùng tay xô đẩy vào vùng ngực của H, làm anh H bị ngã xuống đống phế liệu nên bị các mảnh vỡ Fibro xi măng và vào mặt rồi K tiếp tục dùng tay lấy một mảnh vữ Fibro xi măng đánh trúng vào trán anh H. Hậu quả anh H bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 10%. Mặc dù thương tích của bị hại 10%, nhưng Nguyễn Hữu K đang có 03 tiền án, chưa được xóa án tích, có tính cất côn đồ và dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Vì vậy, Cáo trạng số: 37/CT-VKS-HK ngày 28/6/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu K về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “ người phạm tội tự nguyên bồi thường thiệt hại” và “Thành khẩn khai báo” quy định tại điểm b, tiết thứ nhất điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ khác theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Xét tính chất, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo HĐXX thấy: Bị cáo Nguyễn Hữu K đã 03 lần bị Tòa án đưa ra xét xử, chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để thay đổi bản thân, sống có ích cho gia đình và xã hội mà ngược lại bị cáo vẫn tiếp tục phạm tội. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng: 12 mảnh vỡ Fibro xi măng màu nâu xám không xác định được hình dạng, bám dính một số chất màu nâu (nghi là Máu), là những vật chứng không còn giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;
[7] Đề nghị của Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước bào chữa cho bị cáo về điều luật áp dụng, tội danh, các tình tiết giảm nhẹ là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận. Tuy nhiên lời đề nghị áp dụng Điều 54 BLHS xử lý bị cáo dươi khung hình phạt là chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nên không được chấp nhận.
[8] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng và án phí là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu K thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí, do đó miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 134; điểm b, tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47BLHS; Điều 38 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu K phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu K 30 (ba mươi) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 21/3/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 12 mảnh vỡ Fibro xi măng màu nâu xám, không xác định được hình dạng, bám dính một số chất dịch màu nâu (nghi là Máu). Trong đó mảnh lớn nhất có kích thước (26x16x26x10) cm; mảnh nhỏ nhất có kích thước (11x10x5)cm (Tình trạng, đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng vụ án ngày 03/07/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hương Khê).
4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 39/2023/HS-ST
Số hiệu: | 39/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về