Bản án về tội cố ý gây thương tích số 315/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 315/2020/HS-PT NGÀY 24/08/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 238/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Huỳnh Th; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2020/HS-ST ngày 19-5-2020 của Tòa án nhân dân huyện V.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Huỳnh Th, sinh ngày 07 tháng 9 năm 1997 tại Đồng Nai; Giấy chứng minh nhân dân số: 272569xx5 do Công an tỉnh Đồng Nai cấp ngày 06-11-2012; nơi đăng ký thường trú: Ấp T, xã T1, huyện V, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Trương Huỳnh Tr; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị truy nã theo Quyết định số: 2023/QĐ-CSĐT-ĐTTH ngày 02-12-2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện V; ngày 17-01-2020 bị cáo đầu thú và bị tạm giữ; đến ngày 21-01-2020, được Viện Kiểm sát nhân dân huyện V hủy bỏ tạm giữ; cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện V ban hành Quyết định đình nã số: 215/QĐ-ĐTTH; hiện nay, bị cáo không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Huỳnh Th: Ông Nguyễn Đình H, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai; nơi làm việc: Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Ch; địa chỉ: Số 15/1613, đường P, Khu phố X, phường Th, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Khoảng 14 giờ ngày 31/3/2019, Nguyễn Huỳnh Th cùng Trần Minh H, Nguyễn Phúc H1 và V (không rõ lai lịch), đến quán ăn Q tại ấp T, xã T1, huyện V, tỉnh Đồng Nai, để ăn nhậu; tại đây, gặp nhóm của anh Quản Hoàng H2 (sinh năm 1995), Trần Quốc Q1 (sinh ngày 25/01/2003), Nguyễn Quản Th1, Nguyễn Minh Th2, Lường Minh T, Lương Ngọc T1, Nguyễn Try Ng và Trần Quốc Q2 đang ăn uống tại quán. Nguyễn Huỳnh Th và Quản Hoàng H2 đi vệ sinh thì xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, H2 ôm vật Th ngã xuống nền gạch nhưng không gây thương tích và được anh Lương Ngọc T can ngăn; sau đó, tất cả quay ra bàn nhậu. Th mang bia qua mời H2 uống và yêu cầu H2 xin lỗi về việc vật Th ngã xuống nền gạch, nhưng H2 không đồng ý. Th cùng nhóm bạn tính tiền và ra về.

Khi về đến nhà, Th gọi điện thoại cho bạn tên T2 (không rõ lai lịch), kể cho T2 sự việc bị đánh tại quán ăn Q và nhờ T2 đánh H2 trả thù; T2 đồng ý. Khoảng 15 phút sau, T2, T3, C và 01 người bạn của T2 (không rõ lai lịch), điều khiển 02 xe mô tô đến nhà của Th rồi cùng nhau đi tìm đánh H2. Khoảng 16 giờ 15 phút cùng ngày, C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen biển số 60B9 - 011.5X (xe của anh Lê Quốc Th2 gửi tại nhà Th trước đó) chở Th; Tý điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu vàng (không rõ biển số) chở T3 và người bạn của T2 đến quán Q. Trên đường đi, nhóm của Th nhặt 02 khúc gỗ bên đường làm hung khí (01 khúc gỗ vuông kích thước dài 89 cm x ngang 2,5 cm x 4 cm, có đóng 4 đinh trên thân cây và 01 khúc gỗ dài 60 cm).

Khi nhóm Th đến quán, Th cầm khúc gỗ vuông dài 89 cm đánh 03 cái trúng vào người anh Huy và đánh 01 cái trúng vào mặt anh Trần Quốc Q2; T2 sử dụng khúc gỗ dài khoảng 60 cm, Tèo dùng nón bảo hiểm xông vào đánh Q2, H2 và những người trong nhóm của H2, gây thương tích; đồng thời, đập xe mô tô hiệu Vespa biển số 60B9 - 222.1X của anh Nguyễn Try Ng đỗ tại quán Q.

Sau khi sự việc đánh nhau xảy ra, anh Lương Ngọc T trình báo Công an xã T. Tại Cơ quan Công an, Th đã khai nhận hành vi phạm tội.

2. Vật chứng:

- 01 nón bảo hiểm màu xanh bị bể; 01 khúc gỗ vuông có kích thước dài 89 cm x ngang 2,5 cm x 4 cm, có 04 đinh trên thân cây.

- 01 khúc gỗ dài 60 cm, sau khi gây án, nhóm của Th vứt mất, không xác định được địa điểm nên không thu giữ được.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển số 60B9 - 011.5X là tài sản của anh Lê Quốc Th2, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện V đã trả lại cho chủ sở hữu.

3. Giám định:

1/ Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 0436/TgT/2019 ngày 12/07/2019 của Giám định viên - Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận thương tích và tỷ lệ thương tật của anh Quản Hoàng H như sau:

Chấn thương lách gây tụ máu dưới bao lách được điều trị bảo tồn, tỷ lệ 10%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 10%.

2/ Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 1036/TgT/2019 ngày 13/11/2019 của Giám định viên - Trung tâm Pháp y tỉnh Đồng Nai, kết luận thương tích và tỷ lệ thương tật của anh Trần Quốc Q2 như sau:

- Tổn thương nứt thành trước xoang hàm trái đã liền xương, không di lệch. Tỷ lệ 13%.

- Sẹo đuôi lông mày trái kích thước 02 x 03 cm, sẹo mờ, không xơ dính, không ảnh hưởng thẩm mỹ. Tỷ lệ 01%.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 14%. Vật gây thương tích: Vật tày 4. Dân sự:

Bị cáo Nguyễn Huỳnh Th và gia đình, đã bồi thường cho các anh Quản Hoàng H2 và Trần Quốc Q tổng số tiền 60.00.000 đồng theo yêu cầu. Bị hại không yêu cầu bồi thường thêm.

Xe mô tô nhãn hiệu Vespa biển số 60B9 - 222.1X bị hư hỏng nhẹ. Nguyễn Huỳnh Th đã tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của anh Nguyễn Try Ng.

5. Quyết định của cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2020/HS-ST ngày 19-5-2020 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số: 49/2020/TB-TA ngày 29-5-2020 của Tòa án nhân dân huyện V, đã quyết định như sau:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huỳnh Th phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.

6. Kháng cáo:

Trong thời hạn luật định, bị cáo Nguyễn Huỳnh Th kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

7. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:

Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo; do đó, mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

8. Bài bào chữa của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Huỳnh Th tại cấp phúc thẩm:

Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo bị hoảng loạn nên bỏ trốn. Khi gia đình vận động, bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú, giúp Cơ quan Điều tra nhanh chóng giải quyết vụ án. Bản thân bị cáo có nhân thân tốt, đã bồi thường khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, đã biết lỗi của mình nên đã chủ động xin lỗi bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại. Mức án cấp sơ thẩm đối với bị cáo là quá nghiêm khắc; đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và được hưởng án treo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Huỳnh Th – ông Nguyễn Đình H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Ngay trước khi mở phiên tòa, ông Hải có nộp bài bào chữa cho Tòa án. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Huỳnh Th đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Huỳnh Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Về kháng cáo:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Cấp sơ thẩm xác định: Bị cáo bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú; được bị hại làm đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt; các tình tiết trên được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

+ Cấp phúc thẩm: Bị cáo cung cấp đơn, thể hiện bị cáo là lao động chính trong gia đình và phải nuôi dưỡng em trai bị bệnh; đơn được chính quyền địa phương xác nhận; tình tiết này được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Về hình phạt: Cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án, quyết định mức án dưới khung hình phạt của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là đã xem xét giảm nhẹ. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo có cung cấp tình tiết mới nêu trên; tuy nhiên, mức án cấp sơ thẩm quyết định đối với bị cáo là phù hợp; do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo.

[4] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Đối với phần trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định nêu trên, nên được chấp nhận.

[6] Bài phát biểu của người bào chữa không phù hợp với nhận định nêu trên, nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Huỳnh Th;

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2020/HS-ST ngày 19-5-2020 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số: 49/2020/TB-TA ngày 29-5-2020 của Tòa án nhân dân huyện V.

1. Tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù được tính từ ngày người bị kết án Nguyễn Huỳnh Th vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù, được trừ vào thời gian đã bị tạm giữ (từ ngày 17-01-2020 đến ngày 21-01-2020).

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Huỳnh Th phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Quyết định của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 315/2020/HS-PT

Số hiệu:315/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về