Bản án về tội cố ý gây thương tích số 24/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TP, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 21/02/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 21 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TP xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153/2021/TLST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HS, ngày 11 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐ-HPT, ngày 24 tháng 01 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1986, tại tỉnh Bình Thuận Nơi cư trú: Thôn 03, xã BT, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị B; vợ Nguyễn Thị Bích Th, con có 2 người, lớn sinh năm 2006 và nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: không; tại ngoại;có mặt.

2. Trần Văn A, sinh năm 1995, tại tỉnh Bình Thuận Nơi cư trú: Thôn 02, xã BT, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Lê Thị N; Tiền án, tiền sự: không; tại ngoại; có mặt.

3. Lê Văn M, sinh năm 1996, tại tỉnh Bình Thuận Nơi cư trú: Thôn 02, xã BT, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Nguyễn Thị L; vợ Nguyễn Thị H, con có 1 người, sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không; tại ngoại; có mặt.

4. Trần Văn T, sinh năm 2000, tại tỉnh Bình Thuận Nơi cư trú: Thôn 02, xã BT, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Lê Thị N; vợ Nguyễn Thị Thanh Th, con có 1 người, sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: không; tại ngoại; có mặt.

- Người bị hại: Nguyễn Quốc T1, sinh năm 1995 Nơi cư trú: Thôn 02, xã BT, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; có mặt

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Bích H, ông Nguyễn T2; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 05 tháng 6 năm 2021, Trần Văn A (gọi tắt là bị cáo A), Lê Bá Đ, Nguyễn Văn Tr (gọi tắt là bị cáo Tr), Trần Văn T (gọi tắt là bị cáo T) và Lê Văn M (gọi tắt là bị cáo M) đang ngồi nhậu tại nhà của Đ. Đến khoảng 22 giờ thì nghỉ nhậu nên các bị cáo A, T, Tr, M dẫn xe ra về. Lúc này Đ đi sang nhà của Nguyễn Quốc T1 (gọi tắt là ông T1) kế bên nhà của Đ nói chuyện với ông T1 thì bị cáo M đi theo nói “anh Khổ (tức Đ) nhậu nữa không thì về nhà anh nhậu”, ông T1 liền nói “Mày nói gì mà rần rần” bị cáo M đi đến đứng đối diện với ông T1 nói “tao nói gì mà rần rần” thì ông T1 dùng tay đánh vào mặt bị cáo M một cái dẫn đến bị cáo M và ông T1 đánh nhau. Thấy bị cáo M bị đánh các bị cáo A, T, Tr cùng xông vào đánh ông T1 bằng tay không, cùng lúc này trong nhà của ông T1 có Nguyễn T2, Huy và Tùng (không rõ lai lịch) đang ngồi trong nhà, T2 cầm 02 thanh sắt chạy ra đưa cho ông T1 01 thanh sắt vuông dài 1,75m, T2 cầm thanh sắt vuông dài 1,17m đánh nhóm của bị cáo M chạy về nhà của Đ. Các bị cáo M, A, Tr, T cầm vỏ chai bia Sài Gòn bằng thủy tinh ném vào sân nhà của ông T1 nên nhóm của ông T1 chạy vào nhà, cả nhóm của bị cáo M ném gần hết hai kết bia Sài Gòn thì dừng lại. Bị cáo A điều khiển xe mô tô chạy về nhà của bị cáo A lấy 01 cây đao và 01 cây mã tấu tự tạo của các bị cáo Tr và A cất giấu trước đó đem đến để trên nền sân nhà của Đ. Bị cáo Tr cầm lấy cây đao dài 1,10m lưỡi bằng sắt dài 34cm, phần cán làm bằng ống tiếp sắt tròn dài 76cm chạy trước, bị cáo A cầm mã tấu tự tạo dài 56cm, phần lưỡi làm bằng sắt dài 42cm, phần cán dài 14cm, bị cáo M cầm 02 vỏ chai bia, bị cáo T cầm 02 vỏ chai bia chạy theo sau vào nhà ông T1. Khi đến cửa cổng nhà của ông T1 thì bị cáo T đứng lại mục đích để cảnh giới, còn các bị cáo Tr, A và M chạy ra nhà sau của ông T1, do cửa phía sau nhà hẹp nên chỉ có bị cáo Tr cầm đao chém ông T1 còn các bị cáo M và A đứng phía sau lưng của bị cáo Tr, ông T1 đưa tay trái lên đỡ bị thương tích ở mặt mu bàn tay trái, đánh nhau được một lúc thì các bị cáo Tr, A và M bỏ đi ra đứng trước nhà của Đ thì lực lượng công an xã BT đến đưa những người có liên quann về trụ sở làm việc.

* Căn cứ bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 270/2021/TgT ngày 20 tháng 8 năm 2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bình Thuận, kết luận thương tích của Nguyễn Quốc T1:

- Vết thương – chấn thương mu bàn tay trái, đứt gân duỗi ngón II – III bàn tay trái, gãy xương đốt gần ngón III bàn tay trái đã được phẫu thuật điều trị, hiện hạn chế gấp duỗi ngón II – III, để sẹo vết thương trùng với sẹo vết mổ kích thước 10,5 x 0,2cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 3% + 5% + 2% + 2%.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 11%.

- Vết thương – chấn thương do vật sắc gây ra.

- Vết thương – chấn thương mu bàn tay trái có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương.

Tại bản cáo trạng số: 169/CT-VKS-TP, ngày 09 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tr, Trần Văn A, Lê Văn M và Trần Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên đề nghị: Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tr 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù, cho hưởng án treo; thời giann thử thách là 03 (ba) đến 04 (bốn) năm về tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn A 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo; thời giann thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm về tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn M 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, cho hưởng án treo; thời giann thử thách là 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng về tội “Cố ý gây thương tích” Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, cho hưởng án treo; thời giann thử thách là 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng về tội “Cố ý gây thương tích” Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 cây đao dài 1,10m lưỡi bằng sắt dài 34cm, phần cán làm bằng ống tiếp sắt tròn dài 76cm; 01 cây mã tấu tự tạo dài 56cm, phần lưỡi làm bằng sắt dài 42cm, phần cán dài 14cm, phần lưỡi làm bằng sắt; 01 thanh sắt vuông dài 1,75m; 01 thanh sắt vuông dài 1,17m (tang vật theo biên bản giano nhận vật chứng ngày 30 tháng 9 năm 2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện TP với Công an huyện TP) Người bị hại Nguyễn Quốc T1 đã bồi thường 50.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Các bị cáo Tr, A, T và M thừa nhận đã thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trAnh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quann cảnh sát điều tra Công an huyện TP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TP, Kiểm sát viên; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quann tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về hành vi của các bị cáo: Khoảng 22 giờ, ngày 05 tháng 6 năm 2021, sau khi nhậu xong, Lê Bá Đ nói chuyện với ông T1 thì bị cáo M nói “Anh Khổ (tức Đ) nhậu nữa không thì về nhà Anh nhậu”, ông T1 liền nói “Mày nói gì mà rần rần” bị cáo M đi đến đứng đối diện với ông T1 nói “tao nói gì mà rần rần” thì ông T1 dùng tay đánh vào mặt bị cáo M một cái dẫn đến bị cáo M và ông T1 đánh nhau. Thấy bị cáo M bị đánh các bị cáo A, T, Tr cùng xông vào đánh ông T1 bằng tay không, cùng lúc này trong nhà của ông T1 có Nguyễn T2, Huy và Tùng (không rõ lai lịch) đAg ngồi trong nhà, T2 cầm 02 thanh sắt chạy ra đưa cho ông T1 01 thanh sắt vuông dài 1,75m, T2 cầm thanh sắt vuông dài 1,17m đánh nhóm của bị cáo M chạy về nhà của Đ. Các bị cáo M, A, Tr, T cầm vỏ chai bia Sài Gòn bằng thủy tinh ném vào sân nhà của ông T1 nên nhóm của ông T1 chạy vào nhà, cả nhóm của bị cáo M ném gần hết hai kết bia Sài Gòn thì dừng lại. Bị cáo A điều khiển xe mô tô chạy về nhà của bị cáo A lấy 01 cây đao và 01 cây mã tấu tự tạo của các bị cáo Tr và A cất giấu trước đó đem đến để trên nền sân nhà của Đ. Bị cáo Tr cầm lấy cây đao dài 1,10m lưỡi bằng sắt dài 34cm, phần cán làm bằng ống tiếp sắt tròn dài 76cm chạy trước, bị cáo A cầm mã tấu tự tạo dài 56cm, phần lưỡi làm bằng sắt dài 42cm, phần cán dài 14cm, bị cáo M cầm 02 vỏ chai bia, bị cáo T cầm 02 vỏ chai bia chạy theo sau vào nhà ông T1. Khi đến cửa cổng nhà của ông T1 thì bị cáo T đứng lại mục đích để cảnh giới, còn các bị cáo Tr, A và M chạy ra nhà sau của ông T1, do cửa phía sau nhà hẹp nên chỉ có bị cáo Tr cầm đao chém ông T1 còn các bị cáo M và A đứng phía sau lưng của bị cáo Tr, ông T1 đưa tay trái lên đỡ bị thương tích ở mặt mu bàn tay trái với tỷ lệ tổn thương là 11%.

Các bị cáo Tr, A, M và T gây thương tích cho ông T1 với tỷ lệ tổn thương cơ thể 11%, lẽ ra chỉ phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, nhưng các bị cáo đã sử dụng dao tự tạo dài 1,10m lưỡi bằng sắt dài 34cm, phần cán làm bằng ống tiếp sắt tròn dài 76cm để gây thương tích cho ông T1, đây là T2 tiết định khung hình phạt “dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự nên hành vi của các bị cáo Tr, A, T và M đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng số: 169/CT-VKS-TP, ngày 09 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3]. Về vai trò đồng phạm của từng bị cáo: Các bị cáo cùng thống nhất ý chí thực hiện hành vi phạm tội nhưng không có sự phân công, câu kết chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn và đều là người thực hành. Trong đó, bị cáo Tr là người có vai trò chính, người trực tiếp gây thương tích cho ông T1; tiếp đến là bị cáo A có vai trò tích cực là người lấy 01 cây đao và 01 cây mã tấu tự tạo; các bị cáo M và T có vai trò giúp sức cho bị cáo Tr thực hiện hành vi phạm tội [4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Tr, A, M và T không có tình tiết tăng nặng; Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, “bồi thường thiệt hại” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

[5]. Về tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo: Các bị cáo nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo có đủ căn cứ và điều kiện áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để quyết định cho các bị cáo một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà các bị cáo phạm phải; Nguyên nhân của vụ án xuất phát từ người bị hại đánh bị cáo M trước, thương tật của người bị hại không lớn, các bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cứ trú rõ ràng nên không cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà cho các bị cáo tự cải tạo bản thân dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền và gian đình cũng trờ thành người có ích cho xã hội.

[6]. Về phần tang vật của vụ án: 01 cây đao dài 1,10m lưỡi bằng sắt dài 34cm, phần cán làm bằng ống tiếp sắt tròn dài 76cm; 01 cây mã tấu tự tạo dài 56cm, phần lưỡi làm bằng sắt dài 42cm, phần cán dài 14cm, phần lưỡi làm bằng sắt; 01 thanh sắt vuông dài 1,75m; 01 thanh sắt vuông dài 1,17m là công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội và là vật chứng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy [7]. Về phần dân sự: Các bị cáo đã bồi thường cho ông T1 số tiền 50.000.000 đồng; ông T1 không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[8]. Về án phí: Các bị cáo Tr, A, M và T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Tr, Trần Văn A, Lê Văn M và Trần Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tr 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 03 (ba) năm, kể từ ngày tuyên án (ngày 21/02/2022) Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn A 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án (ngày 21/02/2022) Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Văn M 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án (ngày 21/02/2022) Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án (ngày 21/02/2022) Giao các bị cáo Nguyễn Văn Tr, Trần Văn A, Lê Văn M và Trần Văn T cho Ủy ban nhân dân xã BT và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo Nguyễn Văn Tr, Trần Văn A, Lê Văn M và Trần Văn T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 cây đao dài 1,10m lưỡi bằng sắt dài 34cm, phần cán làm bằng ống tiếp sắt tròn dài 76cm; 01 cây mã tấu tự tạo dài 56cm, phần lưỡi làm bằng sắt dài 42cm, phần cán dài 14cm, phần lưỡi làm bằng sắt; 01 thanh sắt vuông dài 1,75m; 01 thanh sắt vuông dài 1,17m (tang vật theo biên bản giano nhận vật chứng ngày 29 tháng 11 năm 2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện TP với Công A huyện TP)

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy bA thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Văn Tr, Trần Văn A, Lê Văn M và Trần Văn T mỗi người phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự Các bị cáo Nguyễn Văn Tr, Trần Văn A, Lê Văn M và Trần Văn T và người bị hại Nguyễn Quốc T1 đều có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 21/02/2022)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 24/2022/HS-ST

Số hiệu:24/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về