TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 180/2022/HS-PT NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 27 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 113/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 16/2022/HS-ST ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.
- Bị cáo kháng cáo:
Nguyễn Thị D, sinh năm 1977 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú (HKTT): Ấp X, xã Bình Hàng T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 1957 và bà Hà Thị Hồng V (đã chết); có chồng và có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: chưa; tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo đang tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại:
Phạm Thị M, sinh năm 1995 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp X, xã Bình Hàng T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Phạm Thành T, sinh năm 1974 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp X, xã Bình Hàng T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.
- Người làm chứng:
1. Phạm Thành Tâm E, sinh năm 1978 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp X, xã Bình Hàng T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.
2. Huỳnh Văn Đ, sinh năm 1977 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Bình Phú L, xã Bình Hàng T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 30 ngày 03/01/2021, giữa ông Phạm Hồng H với vợ chồng Phạm Thành T2, Nguyễn Thị D (cùng ngụ ấp X, xã Bình Hàng T, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp) xảy ra mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau nhưng không gây thương tích, được Công an xã Bình Hàng T đến can ngăn giải quyết.
Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Phạm Thị M là con của ông Phạm Hồng H nghe lại sự việc nên đi sang sân nhà Phạm Thành T2 lớn tiếng cự cãi, ném bể chậu cây. Lúc này, bị cáo Nguyễn Thị D (vợ của Phạm Thành T2) đi ra phía sau nhà lấy 01 cây chĩa được làm bằng gỗ tre dài 202,3cm, trên đầu có gắn 01 thanh kim loại nhọn dài khoảng 24cm (dùng để đâm lá cây) đi ra cửa trước thì thấy M đi đến cửa nên bị cáo D đã đâm chĩa về phía M khoảng 03 cái làm trúng vùng bụng 01 cái gây thương tích. Nguyễn Thành T2 đang đứng phía trước bị cáo D, thấy sự việc nên chụp giật cây chĩa trên tay của bị cáo D lại rồi ném xuống đất. Phạm Thị M được anh Phạm Thành Tâm E can ngăn, đưa về nhà và chở đến Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp điều trị thương tích. Công an xã Bình Hàng T, huyện Cao L đến lập biên bản sự việc và chuyển hồ sơ đến Công an huyện Cao L giải quyết theo thẩm quyền.
Tại bản Kết luận giám định số 99/TgT ngày 03/3/2021 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Đồng Tháp đã kết luận thương tích đối với Phạm Thị M: Sẹo vết thương phần mền hông phải, hông trái, kích thước nhỏ; Sẹo dẫn lưu hông trái, kích thước nhỏ; Sẹo mổ đường trắng giữa trên và dưới rốn, kích thước trung bình; Thủng mạc treo ruột non đã phẫu thuật khâu cầm máu đơn thuần. Tỷ lệ thương tật: 27% tại thời điểm giám định.
Vật chứng thu giữ:
- 01 cây chĩa có tổng chiều dài 212cm, cán bằng gỗ tre dài 202,3cm, hoành nhỏ 07cm, hoành lớn 9,5cm, mũi bằng kim loại dài 9,7cm, màu xám (một phần mũi chĩa đã được ông T2 cắt bỏ ném mất, đã tổ chức truy tìm nhưng không tìm được).
- 01 cây kềm răng bằng kim loại dài 19 cm, có cán bọc nhựa màu đỏ- đen, có dòng chữ MEANFAST;
- 01 viên đá mài dao dài 20,5cm, rộng 05cm, dầy 1,6cm.
Trong quá trình điều tra, ngày 04/7/2021, giữa Nguyễn Thị D và Phạm Thị M đã thỏa thuận tổng chi phí bồi thường với số tiền 48.811.000 đồng, M đã nhận tiền xong, không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 16/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả xong nên không đặt vấn đề xem xét.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và nêu quyền kháng cáo theo luật định.
Đến ngày 28/02/2022, bị cáo Nguyễn Thị D có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án, vì hành vi của bị cáo chỉ là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi này không cấu thành tội cố ý gây thương tích.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị D thừa nhận có thực hiện hành vi dùng cây chĩa đâm bị hại gây thương tích, thừa nhận Bản án sơ thẩm kết án bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo nhận thấy mức án 12 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là cao, nay bị cáo thay đổi kháng cáo xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm lo cho gia đình, bị cáo trình bày các lý do chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là: Con của bị cáo còn nhỏ, bị cáo mang nhiều bệnh như: Nhịp tim đập nhanh, hở van 02 lá nhẹ- rối loạn chức năng tâm thất trái, xơ vữa nhẹ 02 động mạch chân, tiểu đường tuýp 2, gan nhiễm mỡ. Ngoài ra, bị cáo còn nhận thấy trong vụ án này bị hại là người qua nhà bị cáo chửa bới, ném chậu cây kiểng nhà bị cáo, bị cáo tưởng rằng bị hại sẽ tấn công bị cáo nên trong lúng quẫn bách mới lấy chĩa đâm bị hại. Do đó, bị cáo xin Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo của bị cáo.
Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Thành T2 trình bày thống nhất với lời trình bày của bị cáo Nguyễn Thị D. Sau khi xét xử sơ thẩm thì anh T2 không kháng cáo, nay anh không có ý kiến gì thêm.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm phân tích các tình tiết và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đánh giá kết quả xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và khẳng định việc Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp tuyên án bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không oan, sai. Nay bị cáo D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo, bị cáo cung cấp tài liệu chứng minh hiện nay bị cáo có con còn nhỏ, bị cáo mang nhiều bệnh như: Nhịp tim đập nhanh, hở van 02 lá nhẹ- rối loạn chức năng tâm thất trái, xơ vữa nhẹ 02 động mạch chân, tiểu đường tuýp 2, gan nhiễm mỡ, đây là các tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo từ 01 tháng tù đến 03 tháng tù.
Trong phần tranh luận, bị cáo Nguyễn Thị D không tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Bị cáo Nguyễn Thị D trình bày rằng bị hại Phạm Thị M chỉ là con cháu của bị cáo nhưng đã dùng lời lẽ thô tục chửi bới gia đình bị cáo, rồi qua nhà của bị cáo, ném chổi, chậu kiểng là đồ vật nguy hiểm vào cửa nhà của bị cáo có thể gây hại cho gia đình bị cáo, nên bị cáo đã dùng một cây chĩa được làm bằng gỗ tre dài 202,3cm, trên đầu có gắn một thanh kim loại nhọn dài khoảng 24cm (dùng để đâm lá cây) đã đâm bị hại Mến gây thương tích với tỉ lệ là 27%. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là sai, thừa nhận phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự đúng như Bản án sơ thẩm đã xét xử. Vì vậy bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo.
[2] Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo Nguyễn Thị D là người đã trưởng thành, đủ khả năng nhận thức được rằng sức khỏe của con người là vốn quý được pháp luật bảo vệ, không ai được quyền xâm phạm, nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà bị cáo dùng hung khí nguy hiểm là cây chĩa đâm thủng bụng của bị hại Phạm Thị M gây ra mức tổn thương cơ thể cho bị hại là 27%. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 16/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp kết án bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo D thay đổi kháng cáo từ kêu oan sang xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo. Xét kháng cáo này, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là: Bồi thường thiệt hại cho bị hại, thành khẩn khai báo theo các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn nhận định việc bị hại M có hành vi ném chổi, chậu kiểng là đồ vật có thể gây nguy hiểm cho gia đình bị cáo và đi vào nhà bị cáo thái độ hung hăng dẫn đến việc bị cáo gây thương tích là bị hại cũng có một phần lỗi, nên Tòa án cấp sơ thẩm xem đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để áp dụng hình phạt cho bị cáo ở khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khung hình phạt mà bị cáo vi phạm, từ đó xét xử bị cáo mức án 12 tháng tù là đã có xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nay tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ, hưởng án treo kèm theo chứng cứ chứng minh bị cáo đang mắc các bệnh nhịp tim đập nhanh, hở van 02 lá nhẹ- rối loạn chức năng tâm thất trái, xơ vữa nhẹ 02 động mạch chân, tiểu đường tuýp 2, gan nhiễm mỡ, Hội đồng xét xử ghi nhận đây là tình tiết giảm nhẹ mới theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng vì hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra nên giữ nguyên hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định. Xét thấy bị cáo có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2013, nên việc bị cáo cho rằng vì con mình còn nhỏ mà kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là không được chấp nhận.
[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo. Vì vậy cũng không chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa.
[5] Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[6] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Thị D.
Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 16 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị D.
2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/02/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Thị D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 180/2022/HS-PT
Số hiệu: | 180/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về