Bản án về tội cố ý gây thương tích số 14/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 18/06/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

 Ngày 18 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 12/2020/ QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

TRẦN THỊ TH (Nhỏ), sinh năm: 1993 tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L 1, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; chỗ ở hiện nay: Thôn L 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần L và bà Đỗ Thị L; có chồng và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. (Có mặt) Bị hại: Anh Trương Thành H, sinh năm: 1976; nơi cư trú: Thôn L 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần L, sinh năm: 1964; nơi cư trú: Thôn L 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Có mặt) Người làm chứng: Chị Trần Thị H, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Thôn L 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Xuất phát từ mâu thuẫn tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Trần L và ông Trương Thành H nên khoảng 16 giờ ngày 23/10/2019 giữa ông H và gia đình ông L xảy ra xô xát, ném đá qua lại. Sau đó, ông L cầm một đoạn cây gỗ đi qua nhà ông H, xô xát đánh nhau với ông H, ông L dùng tay đấm vào mặt ông H, ông H dùng tay phải bóp cổ ông L đè vào tường, dùng miệng cắn ngón trỏ tay trái ông L, bị cắn đau ông L kêu la: “Cứu ba, cứu ba!”. Nghe tiếng kêu của ông L, Trần Thị Th liền chạy qua, trên đường Th nhặt 01 đoạn cây gỗ loại khô cứng có cạnh vuông màu xám đen dài khoảng 50cm, chạy vào phòng khách thấy ông H và ông L đang ôm ghì nhau dưới nền nhà, H đang cắn ngón tay ông L không nhả ra nên Th cầm đoạn cây gỗ đánh một cái vào chân phải, một cái vào chân trái và đánh liên tiếp 02 - 03 cái vào lưng H nhưng không gây thương tích, thấy H vẫn không nhả, Th cầm cây gỗ bằng tay phải đánh 02 cái hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng đầu H gây choáng, chảy máu bị thương tích nên H thả nhả ông L ra. Xong, Th và ông L bỏ đi về, trên đường đi, Th vứt bỏ cây gỗ dọc đường.

Sau khi bị đánh, khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, ông H đến Công an xã P trình báo sự việc rồi thuê xe đi bệnh viện tỉnh Ninh Thuận điều trị thương tích từ ngày 23/10/2019 đến ngày 04/11/2019 xuất viện. Ngày 08/01/2020, ông Trương Thành H làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Tại giấy chứng nhận thương tích số 1900886-GCT/CN ngày 07/11/2019 của Bệnh viện tỉnh Ninh Thuận xác nhận tình trạng thương tích của ông Trương Thành H lúc vào viện: Vết thương vùng đầu phải lần lượt 06cm, 01 cm, sâu 0,5cm; đa vết thương xây xát da vùng mặt.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 03/TgT ngày 16/12/2019 của Trung tâm giám định y khoa - Pháp y tỉnh Ninh Thuận, kết luận thương tích của ông Trương Thành H:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Vết thương ngang đỉnh đầu sẹo liền tốt phẳng mềm di động kích thước (5,2x0,3)cm (03%);

+ Vết thương đỉnh đầu phải sẹo liền tốt phẳng mềm di động kích thước (0,5x0,1)cm (01%);

+ Gò má trái có vết thay đổi sắc tố da sẹo mờ kích thước (1,4x0,1)cm (00%); Xquang: Không thấy tổn thương xương hộp sọ, xương hàm gò má cung tiếp hai bên; không thấy tổn thương xương bàn ngón chân trái.

* Cơ chế hình thành vết thương: Nhận định do vật tày gây nên.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 04% (Không bốn phần trăm)”.

Tại bản Cáo trạng số: 11/CT-VKSTN ngày 28 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý gây thương tích", do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) phạm tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo cho UBND xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận để giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586 và Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015.

+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về phần bồi thường tiền viện phí, tiền thuốc, tiền xe và tiền ăn uống với tổng số tiền 9.365.000 đồng;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tuyên buộc bị cáo bồi thường các khoản cho bị hại, gồm: tiền mất thu nhập lao động 13 ngày x 250,000 đồng/ngày = 3.250.000 đồng; tiền thuê người nuôi bệnh 13 ngày x 150.000 đồng/ngày = 1.950.000 đồng; tiền bù đắp tổn thất tinh thần 03 lần x 1.490.000 đồng = 4.470.000 đồng.

Tổng cộng tiền bồi thường là 9.365.000 đồng + 4.470.000 đồng = 19.035.000 đồng.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.000.000 đồng bị cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T theo biên lai số 0003240 ngày 01/4/2020 để đảm bảo thi hành án.

Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) đã khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 23/10/2019 tại thôn L 3, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận. Bị cáo đã dùng một đoạn gỗ khô cứng có cạnh vuông dài khoảng 50cm là hung khí nguy hiểm đánh 02 (Hai) cái vào vùng đỉnh đầu của anh Trương Thành H với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 04% (Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 03/TgT ngày 16/12/2019 của Trung tâm giám định y khoa - pháp y tỉnh Ninh Thuận). Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương nên Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt và chưa có tiền án, tiền sự.

Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, bị hại Trương Thành H yêu cầu bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) bồi thường tổng số tiền 60.565.014 đồng, gồm các khoản: Tiền thuê xe đi về 1.000.000 đồng, tiền viện phí 4.225.014 đồng, tiền thuê người nuôi bệnh 13 ngày 2.600.000 đồng và các khoản yêu cầu không hóa đơn chứng từ gồm: tiền thuốc mua ngoài 1.140.000 đồng, tiền ăn uống 3.000.000 đồng, tiền mất thu nhập lao động 13 ngày 3.900.000 đồng, tiền bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần bằng 30 lần mức lương cơ sở là 44.700.000 đồng. Ngoài ra bị hại không yêu cầu gì khác, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) đồng ý bồi thường cho bị hại Trương Thành H tổng số tiền 9.365.014 đồng, gồm các khoản: Tiền thuê xe đi về 1.000.000 đồng, tiền viện phí 4.225.014 đồng, tiền thuốc mua ngoài 1.140.000 đồng, tiền ăn uống 3.000.000 đồng. Ngoài ra bị cáo không đồng ý bối thường gì khác, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo pháp luật.

Qua xem xét yêu cầu của bị hại, sự tự nguyện bồi thường của bị cáo, cũng như ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi bị cáo gây thương tích cho bị hại thì bị hại có đi điều trị vết thương. Để đảm bảo bồi thường đúng theo quy định pháp luật, vì vậy buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại các khoản chi phí theo hóa đơn chứng từ và các khoản chi phí hợp lý khác tổng số tiền là 19.035.014 đồng (Trong đó: Tiền thuê xe đi về 1.000.000 đồng; tiền viện phí 4.225.014 đồng; tiền thuốc mua ngoài 1.140.000 đồng; tiền ăn uống 3.000.000 đồng; tiền mất thu nhập lao động 13 ngày x 250.000 đồng/ngày = 3.250.000 đồng; tiền thuê người nuôi bệnh 13 ngày x 150.000 đồng/ngày = 1.950.000 đồng; tiền bù đắp tổn thất tinh thần 03 lần x 1.490.000 đồng = 4.470.000 đồng) là phù hợp với quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật dân sự.

Hiện nay bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) đã nộp số tiền 5.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T để bồi thường cho bị hại.

Đối với cây gỗ mà bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) dùng để đánh bị hại Trương Thành H. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Đối với hành vi đánh nhau qua lại giữa ông Trần L và anh Trương Thành H nhưng không gây thương tích và hành vi ném đá sang nhà qua lại của anh H và chị Trần Thị H không gây hư hỏng tài sản. Cơ quan điều tra Công an huyện T chuyển xử lý vi phạm hành chính đối với anh H, ông L và chị H là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Riêng số tiền án phí dân sự sơ thẩm, bị cáo tự nguyện nộp số tiền 5.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại, do đó bị cáo phải chịu án phí tương ứng với số tiền còn lại chưa bồi thường.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) phạm tội "Cố ý gây thương tích". Xử phạt bị cáo 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án (Ngày 18/6/2020). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ vào Điều 46 của Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) bồi thường cho bị hại Trương Thành H tổng số tiền là 19.035.014đ (Mười chín triệu không trăm ba mươi lăm nghìn không trăm mười bốn đồng) (Trong đó: Tiền thuê xe đi về 1.000.000 đồng; tiền viện phí 4.225.014 đồng; tiền thuốc mua ngoài 1.140.000 đồng; tiền ăn uống 3.000.000 đồng; tiền mất thu nhập lao động 13 ngày x 250.000 đồng/ngày = 3.250.000 đồng; tiền thuê người nuôi bệnh 13 ngày x 150.000 đồng/ngày = 1.950.000 đồng; tiền bù đắp tổn thất tinh thần 03 lần x 1.490.000 đồng = 4.470.000 đồng).

Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) mà bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) đã nộp (Theo Biên lai thu tiền số 0003240 ngày 01/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T) để đảm bảo bồi thường cho bị hại.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (Đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14. Buộc bị cáo Trần Thị Th (Nhỏ) phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 701.750đ (Bảy trăm lẽ một nghìn bảy trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo và bị hại có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 18/6/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 14/2020/HS-ST

Số hiệu:14/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về