TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KON PLÔNG, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 18/05/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 18 tháng 5 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum mở phiên tòa xét xử trực tuyến tại các điểm cầu:
- Điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. (Địa chỉ: Số 212, đường V, thị trấn M, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum).
- Điểm cầu thành phần: Phòng làm việc Đội thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp - Công an huyện Kon Plông. (Địa chỉ: Số 01, đường D, thị trấn M, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum).
Để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2023/TLST- HS ngày 20 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: A Ch (tên gọi khác: Không); sinh ngày 10 tháng 5 năm 198x tại Kon Tum. Nơi cư trú: Thôn Đ T Â, xã Ng T, huyện K Pl, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Ca Dong; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông A H, sinh năm: 195x và bà Y X, sinh năm 196x; bị cáo có vợ là Y D, sinh năm 197x; có 02 con, con lớn sinh năm 200x, con nhỏ sinh năm 200x; bị cáo có 06 anh em, bị cáo là con út trong gia đình; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tốt.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/12/2022 cho đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Kon Plông. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo A Ch: Bà Đặng Thị Kim N (Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Kon Tum);
Địa chỉ: Số 211, đường D, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
+ Ông Đinh H Đ (tên gọi khác: Đinh Hồng Đ), sinh năm 194x
Địa chỉ: Thôn Đ T Â, xã Ng T, huyện K Pl, tỉnh Kon Tum. Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
+ Anh A Đ, sinh năm 198x.
Địa chỉ: Thôn Đ T Â, xã Ng T, huyện K Pl, tỉnh Kon Tum. Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Y D, sinh năm 197x.
Địa chỉ: Thôn Đ T Â, xã Ng T, huyện K Pl, tỉnh Kon Tum. Có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Anh A D, sinh năm 199x Địa chỉ: Thôn Đ T Â, xã Ng T, huyện K Pl, tỉnh Kon Tum. Có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
- Người phiên dịch: Ông Đinh Văn T.
Nơi công tác: Hội cựu chiến binh huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 03/12/2022, A Chvà vợ là Y D mời A D, A Th, A Ch1, A Đ cùng trú tại Thôn Đ T Â, xã Ng T, huyện K Pl đến nhà ăn cơm, uống rượu theo lễ cúng phong tục. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày do thấy trong người mệt, A Ch không ăn, uống rượu nữa mà đi đến bếp lửa cách vị trí ngồi uống rượu khoảng 02 mét nằm ngủ. Đến khoảng 23 giờ, A Th, A Ch1 uống rượu say không uống nữa và nằm ngủ ở góc sàn nhà A Ch. Một lát sau, Y D thấy A Chcó dấu hiệu run và co giật nhẹ nên nói A Doa qua nhà ông Đinh H Đ gọi ông Đ sang để xem sức khỏe A Ch như thế nào. Khi ông Đ đến thì thấy A Chđang ngủ bên bếp lửa nên đến bắt mạch cho A Ch. Sau đó, ông Đ đi đến ngồi uống rượu cùng với Y D, A Đ, A Doa. Đến khoảng 00 giờ ngày 04/12/2022, A Ch tỉnh dậy, những người đang ngồi uống rượu thấy A Ch tỉnh dậy người mệt, đứng không vững nên ông Đ nói A Ch sao đứng vậy, ngồi xuống đi. Khi A Ch nghe ông Đ nói ngồi xuống, A Ch nghĩ là ông Đ nói ngồi xuống uống rượu, nên A Ch bực tức, sẵn có 01 con dao, 01 cây gậy gỗ tròn dài 69 cm để trên tấm đan gác trên bếp lửa, A Ch dùng tay phải cầm dao, tay trái cầm cây gậy bằng gỗ đi đến chỗ ông Đ đang ngồi uống rượu, A Ch dùng tay trái cầm gậy gỗ đánh ông Đ ba lần liên tiếp theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải làm cho ông Đ bị thương ở cẳng tay bên phải và đầu. Thấy ông Đ ôm đầu, những người ngồi uống rượu chung đến đỡ ông Đ đứng dậy và Y D đưa ông Đ về nhà để nghỉ ngơi. Lúc này, A Đ nói A Ch sao lại đánh ông Đ nên A Ch bực tức và sẵn tay phải đang cầm dao, tay trái đang cầm gậy gỗ đi đến gần chỗ A Đ, dùng tay trái cầm cây gậy gỗ đánh một cái theo hướng tạt ngang từ trái qua phải vào vùng mắt phải của A Đ. Sau khi đánh A Đ, A Ch đi đến chỗ bếp lửa tiếp tục nằm ngủ, A Đ đi về nhà A D nghỉ. Sáng hôm sau, Đinh H Đ và A Đ được người nhà đưa đi điều trị ở Trung tâm y tế huyện Kon Plông. Sau đó A Đ được đưa đi Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum để tiếp tục điều trị.
Ngày 05/12/2022, A Ch ra đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội trên và giao nộp 01 con dao, 01 cây gậy bằng gỗ là công cụ mà A Ch sử dụng gây thương tích cho Đinh H Đvà A Đ.
Ngày 08/12/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Kon Plông ra quyết định trưng cầu giám định số 43/QĐ-CSĐT và số 44/QĐ-CSĐT, trưng cầu giám định tỷ lệ phần trăm thương tích, cơ chế hình thành thương tích lần lượt đối với ông Đinh Hồng Đ, A Đ.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 149/TgT-TTPY ngày 12/12/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Kon Tum kết luận Đinh H Đ có các vết thương: Sẹo vùng trán – đỉnh 3%, gãy đầu dưới xương trụ cẳng tay phải 8%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 11% (Mười một phần trăm). Vật gây thương tích là vật tày.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 150/TgT-TTPY ngày 12/12/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Kon Tum kết luận A Đ có dấu vết: Khoét bỏ nhãn cầu bên phải. Tỷ lệ tổn thương có thể của A Đ tại thời điểm giám định là 53% (Năm mươi ba phần trăm). Vật gây thương tích là vật tày.
Tại Bản Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 20 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo A Ch về tội "Cố ý gây thương tích" được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, c, i khoản 1 Điều 134) với tình tiết định khung là dùng hung khí nguy hiểm; đối với người già yếu, ốm đau, người không có khả năng tự vệ; có tính chất côn đồ. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung Bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo A Ch phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, c, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo A Ch từ 06 (sáu) năm đến 06 (sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/12/2022).
Về trách nhiệm dân sự:
Trong quá trình điều tra vụ án, A Ch đã bồi thường cho A Đ số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) chi phí điều trị thương tích và bồi thường cho ông Đinh H Đ 5.000.000đồng (năm triệu đồng) nhưng ông Đ không nhận (vì lý giữa bị cáo và ông Đ có mối quan hệ họ hàng) nên ông Đ không nhận tiền bồi thường. Tại phiên tòa các bị hại Đinh H Đ và A Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn các bị hại không yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường thiệt hại về sức khỏe do bị cáo đã gây ra. Chị Y D cũng không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) đã bồi thường cho A Đ nên đề nghị HĐXX không xem xét.
Về vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Kon Plông đã tạm giữ: 01 (một) cây gậy gỗ dài 69cm, hình trụ tròn, đường kính trung bình 03cm; 01 con dao màu đen lưỡi dao bằng kim loại dài 26cm dạng dẹt, nơi rộng nhất là 2,5cm, đầu nhọn, cán dao hình trụ tròn bằng nhựa màu đen dài 15cm, đường kính 2,5cm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.
Theo biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 24 tháng 4 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
Đối với bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông đã truy tố, thống nhất với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo không bị mớm cung, ép cung hay bị dùng nhục hình. Trong phần tranh luận bị cáo không có tranh luận gì.
Bà Đặng Thị Kim N là người bào chữa cho bị cáo A Ch thống nhất với luận tội của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, sống vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, nhận thức về pháp luật còn hạn chế, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng say xỉn không tỉnh táo, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện và tác động vợ bị cáo bồi thường khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra cho A Đ với số tiền 5.000.000đồng (năm triệu đồng) và bồi thường cho ông Đinh H Đ 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) nhưng ông Đ không nhận; sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo ra đầu thú, tại phiên tòa các bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và cũng nhằm để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Về hình phạt và Điều luật áp dụng đói với bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, c, i khoản 1 Điều 134); Điều 38; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo A Ch mức án thấp nhất của khung hình phạt.
Bị hại A Đ và Đinh H Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Y D không yêu cầu gì đối với bị cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị hại Đinh Hồng Đ, A Ch và người làm chứng anh A D có đơn xin xét xử vắng mặt và những người vắng mặt này đã có lời khai trong hồ sơ, không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị hại Đinh Hồng Đ, A Đ và người làm chứng A D.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ xác định:
Vào khoảng 00 giờ ngày 04/12/2022, tại nhà của A Ch ở Thôn Đ T Â, xã Ng T, huyện K Pl, tỉnh Kon Tum, bị cáo A Ch sau khi uống rượu không làm chủ được hành vi của mình, bị cáo A Ch đã dùng tay trái cầm cây gậy bằng gỗ đánh ông Đinh H Đ ba cái liên tiếp theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải làm cho ông Đ bị thương ở cẳng tay bên phải và đầu gây thương tích với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể 11%. Sau đó, bị cáo dùng tay trái cầm cây gậy gỗ, đánh một cái theo hướng tạt ngang từ trái qua phải vào vùng mắt bên phải của A Đ gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 53%.
Hành vi của bị cáo A Ch đã xâm phạm đến sức khoẻ của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo A Ch có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo A Ch đã dùng cây gậy gỗ là hung khí nguy hiểm thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho bị hại Đinh H Đ là người già yếu, gây thương tích cho A Đ là người khuyết tật không có khả năng tự vệ, có tính chất côn đồ. Hành vi phạm tội của A Ch đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là dùng hung khí nguy hiểm, gây thương tích đối với người già yếu, ốm đau, không có khả năng tự vệ và có tính chất côn đồ theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, c, i khoản 1 Điều 134) như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kon Plông đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Giữa bị cáo A Ch và bị hại Đinh Hồng Đ, A Đ là người họ hàng và quen biết nhau ở nơi cư trú, không có mâu thuẫn gì từ trước cũng như trong lúc uống rượu tại nhà bị cáo nhưng bị cáo đã cố ý dùng cây gậy gỗ là hung khí nguy hiểm đánh ba cái liên tiếp vào vùng đầu của ông Đinh H Đ là người già yếu, ốm đau trên 70 tuổi đã gây thương tích cho ông Đ với tỷ lệ thương tích 11%; sau đó bị cáo dùng gậy gỗ gây thương tích vào vùng mắt của anh A Đ là người khuyết tật không có khả năng tự vệ, chống đỡ đã gây thương tích cho A Đ 53%. Khi gây ra thương tích cho ông Đ và A Đ, bị cáo không đưa bị hại đi cấp cứu, băng bó vết thương là thể hiện tính chất côn đồ, xem thường pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm và cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo học tập, cải tạo phấn đấu trở thành người tốt, biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Tuy nhiên, xét động cơ, mục đích, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy bị cáo và bị hại là họ hàng và quen biết nhau ở nơi cư trú. hành vi phạm tội chỉ vì bực tức bộc phát chứ không có mâu thuẫn từ trước, bị cáo thực hiện hành vi không có tính hung hãn, quyết liệt. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá khi lượng hình để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi gây thương tích cho các bị hại, bị cáo đã ra đầu thú và bồi thường cho A Đ số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng), ông Đinh H Đsố tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) nhưng ông Đ không nhận. Tại phiên tòa, các bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[5] Đối với nội dung bào chữa của bà Đặng Thị Kim N: Xét thấy, ý kiến tranh luận của bà Đặng Thị Kim N đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, c, i khoản 1 Điều 134); Điều 38; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự tuyên phạt: Bị cáo A Ch mức án thấp nhất của khung hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã dùng hung khí nguy hiểm, phạm tội với người già yếu, ốm đau không có khả năng tự vệ, phạm tội có tính chất côn đồ gây thương tích cho bị hại Đinh H Đ 11% và A Đ 53%, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, c, i khoản 1 Điều 134), sau khi thực hiện hành vi gây thương tích cho ông Đ và anh A Đ bị cáo không đưa các bị hại đi bệnh viện để điều trị. Do đó, đề nghị của người bào chữa với mức án thấp nhất của khung hình phạt là không phù hợp nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi gây thương tích cho các bị hại A Đ và Đinh Hồng Đ, bị cáo A Ch đã tác động vợ là Y D bồi thường cho A Đ số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) do sức khỏe bị xâm phạm, A Đ đã nhận tiền; bồi thường cho ông Đinh H Đ số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) nhưng ông Đ không nhận (vì giữa bị cáo và ông Đinh H Đcó quan hệ chú cháu họ hàng) nên ông Đ không nhận.Tại phiên tòa, các bị hại Đinh Hồng Đ, A Đ có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về trách nhiệm dân sự do sức khỏe bị xâm phạm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng: 01 (một) cây gậy gỗ dài 69cm, hình trụ tròn, đường kính trung bình 03cm. Hội đồng xét xử xét thấy cây gậy gỗ là công cụ, phương tiện là hung khí nguy hiểm, bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy; 01 con dao màu đen lưỡi dao bằng kim loại dài 26cm dạng dẹt, nơi rộng nhất là 2,5cm, đầu nhọn, cán dao hình trụ tròn bằng nhựa màu đen dài 15cm, đường kính 2,5cm là của bị cáo, không dùng vào việc phạm tội và bị cáo trình bày tại phiên tòa không nhận lại con dao. Hội đồng xét xử xét thấy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[8] Về án phí: Bị cáo A Ch phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nhưng bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn.(theo quyết định số: 861/QĐ-TTG ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ) nên thuộc trường hợp được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo A Ch phạm tội “Cố ý gây thương tích” Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, c, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo A Ch 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 05/12/2022).
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy các vật chứng:
+ 01 (một) cây gậy gỗ dài 69cm, hình trụ tròn, đường kính trung bình 03cm;
+ 01 con dao màu đen lưỡi dao bằng kim loại dài 26cm dạng dẹt, nơi rộng nhất là 2,5cm, đầu nhọn, cán dao hình trụ tròn bằng nhựa màu đen dài 15cm, đường kính 2,5cm.
Theo biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 24 tháng 4 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kon Plông và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo A Ch được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/5/2023). Riêng các bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 03/2023/HS-ST
Số hiệu: | 03/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kon Plông - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về