Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 34b/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAKAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 34B/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 13/9/2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 111/2022/TLST - HNGĐ, ngày 21 tháng 3 năm 2022; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 08/8/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25/8/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Bị đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Phạm Văn T sau một thời gian tìm hiểu thì tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk vào năm 2001. Trong cuộc sống hôn nhân do ông T không chịu khó làm ăn, không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vả, xúc phạm lẫn nhau. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng để tiếp tục cuộc sống hôn nhân nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được và cả hai đã không sống chung với nhau từ năm 2020 đến nay. Xét thấy cuộc sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn ông T.

Về con chung: Chúng tôi có hai con chung là Phạm Văn C, sinh ngày 23/5/2000 và Phạm Thị N sinh ngày 18/3/2008. Con chung Phạm Văn C đã thành niên, có thể tự lao động nuôi sống bản thân nên tôi không yêu cầu giải quyết. Đối với Phạm Thị N tôi có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi Phạm Thị N đủ 18 tuổi. Tôi không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết * Bị đơn ông Phạm Văn T đã được Tòa án nhân dân huyện Ea Kar tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không tham gia giải quyết vụ án. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải để các đương sự đoàn tụ và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện EaKar đã ban hành các văn bản tố tụng, triệu tập các đương sự để tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải nhưng bị đơn không tham gia để giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị A có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Phạm Văn T vắng mặt lần thứ hai, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xét xử vắng mặt các đương sự. Bà Nguyễn Thị A vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho ông được ly hôn với ông Phạm Văn T. Bà A có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Phạm Thị N cho đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng tiền nuôi con đồng thời sẽ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung và nợ chung không đề nghị tòa án đề cập.

* Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã ban hành các quyết định, cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự đúng quy định. Thành phần Hội đồng xét xử đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật; Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán đã giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa. Bị đơn không chấp hành quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56 Điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị A. Cho bà Nguyễn Thị A được ly hôn với ông Phạm Văn T.

- Về con chung: Giao con chung Phạm Thị N sinh ngày 18/3/2008 cho bà A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng trong quá trình giải quyết vụ án bà A không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, Kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị A có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện EaKar giải quyết việc hôn nhân, con chung đối với ông Phạm Văn T, đơn khởi kiện của bà A được Tòa án nhân dân huyện EaKar xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, được quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện EaKar.

Về thủ tục mở phiên tòa vắng mặt các đương sự: Tòa án nhân dân huyện EaKar đã tiến hành tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐST – HNGĐ, ngày 08 tháng 8 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2022/QĐST – HNGĐ, ngày 25 tháng 8 năm 2022 cho các đương sự. Tuy nhiên tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị A và ông Phạm Văn T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk vào năm 2001 nên là hôn nhân hợp pháp. Theo bà A xác định, trong cuộc sống hôn nhân do ông T không chịu khó làm ăn, không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vả, xúc phạm lẫn nhau. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng để tiếp tục cuộc sống hôn nhân nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được và cả hai đã không sống chung với nhau từ năm 2020 đến nay nên bà A có nguyện vọng ly hôn với ông T.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương xác định không rõ nguyên nhân mâu thuẫn của bà A và ông T là gì, không báo chính quyền địa phương nhưng cuộc sống của vợ chồng ông T thường xuyên cải vã do có thời gian ông T tham gia chơi bài bạc.

Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị A, cho bà Nguyễn Thị A được ly hôn với ông Phạm Văn T.

Về con chung: Bà A và ông T có hai con chung là Phạm Văn C, sinh ngày 23/5/2000 và Phạm Thị N sinh ngày 18/3/2008. Trong đó con chung Phạm Văn C đã thành niên, có thể tự lao động nuôi sống bản thân nên bà A không yêu cầu giải quyết. Đối với Phạm Thị N, bà A có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi Phạm Thị N đủ 18 tuổi. Tại bản tự khai, cháu N có nguyện vọng được ở với mẹ là Nguyễn Thị A. Để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh về tâm, sinh lý, cũng như để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu là hoàn toàn phù hợp và thỏa đáng nên căn cứ Điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Phạm Thị N sinh ngày 18/3/2008 cho bà Nguyễn Thị A trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (Tròn18 tuổi).

Về trợ cấp nuôi con: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết Về tài sản chung và công nợ: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đề cập.

[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 203, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, và Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ khoản 1 Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, 82 và Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị A.

* Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị A được ly hôn với ông Phạm Văn T.

* Về con chung: Giao con chung Phạm Thị N sinh ngày 18/3/2008 cho bà Nguyễn Thị A trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Ông Phạm Văn T được quyền đi lại thăm nom con chung và không ai được cản trở. Tuy nhiên, ông Phạm Văn T không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung khi cần thiết, các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung.

* Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

* Về án phí: Bà Nguyễn Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm; được khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 60AA/2021/0005942 ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.

* Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 34b/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34b/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về