Bản án về ly hôn và nuôi con số 250/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 250/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 04 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 99/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2022/QĐXX-ST ngày 20 tháng 7 năm 2022 giữa:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kim Ph, sinh năm 1993; Đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ M đường Đ, xã N, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Xóm B thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.

Bị đơn: Anh Phạm Tiến D, sinh năm 1992; Nơi cư trú: tổ M đường Đ, xã N, thành phố N, tỉnh Nam Định.

(tại phiên tòa vắng mặt chị Ph, anh D do có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện đề ngày 18-4-2022; bản tự khai ngày 06-5-2022 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là Chị Trần Thị Kim Ph trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng: Chị và anh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu khoảng 3 năm và có đăng ký kết hôn vào ngày 26 tháng 9 năm 2017 tại UBND xã N, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, anh D không tu chí làm ăn, không quan tâm chăm sóc vợ con. Do mâu thuẫn kéo dài không thể khắc phục nên vợ chồng đã sống ly thân, chị và con trai đã chuyển về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại: Xóm B thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định. Trong thời gian ly thân, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc đến nhau. Nay chị Ph xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin được ly hôn anh D.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Minh Đ, sinh ngày 17- 12-2017, giới tính: Nam. Hiện nay đang ở với chị Ph. Chị Ph có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không đề nghị anh D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Ph không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ngoài ra, do công việc kinh doanh nên ngày 20-7-2022 Chị Trần Thị Kim Ph đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

2. Tại bản tự khai ngày 24-5-2022 bị đơn là anh Phạm Tiến D trình bày:

Về điều kiện hôn nhân: Anh D xác nhận điều kiện kết hôn của vợ chồng như chị Ph trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng anh D trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống. Do mâu thuẫn kéo dài không thể khắc phục nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2022. Nay chị Ph có nguyện vọng ly hôn, anh D xác định mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy cũng đồng ý ly hôn với chị Ph.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Minh Đ, sinh ngày 17- 12-2017, giới tính: Nam. Hiện nay đang ở với chị Ph. Nếu ly hôn, anh D đồng ý để chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con vợ chồng tự thỏa thuận.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh D không thể tham gia tố tụng để giải quyết vụ án hôn nhân gia đình với chị Ph nên ngày 31-5-2022 anh D có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

3. Tại biên bản thu thập tài liệu, chứng cứ ngày 06-5-2022, Ủy ban nhân dân xã N xác nhận quá trình chung sống cũng như nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chị Ph và anh D là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân. Về con chung, chị Ph và anh D có một con chung là Phạm Minh Đ, sinh ngày 17-12-2017, giới tính: Nam. Hiện nay đang ở với chị Ph. Nay chị Ph có nguyện vọng ly hôn và nuôi con chung, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

4. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 48 và Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cho ly hôn giữa Chị Trần Thị Kim Ph và Phạm Tiến D.

Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph và anh D giao con Phạm Minh Đ, sinh ngày 17-12-2017, giới tính: Nam cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: chị Ph và anh D không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị Ph là nguyên đơn nên phải nộp án phí ly hôn theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ lời trình bày và đề nghị của đương sự tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Trần Thị Kim Ph là nguyên đơn, anh Phạm Tiến D là bị đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về điều kiện kết hôn: Chị Trần Thị Kim Ph và anh Phạm Tiến D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố Nam Định ngày 26-9-2017. Như vậy hôn nhân giữa chị Ph và anh D là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Quá trình chung sống, chị Ph và anh D chung sống hòa thuận đến năm 2022 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng do vợ chồng bất đồng quan điểm lối sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2022 cho đến nay. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Ph và anh D ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 để xử cho ly hôn giữa Chị Trần Thị Kim Ph và anh Phạm Tiến D.

[3] Về việc nuôi con chung: Chị Ph có nguyện vọng được nuôi dưỡng con Phạm Minh Đ. Hội đồng xét xử nhận thấy hiện tại con chung đang ở cùng với chị Ph và do chị Ph trực tiếp chăm sóc. Anh D cũng có quan điểm đồng ý để chị Ph trực tiếp nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng vào các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con Phạm Minh Đ, sinh ngày 17-12-2017, giới tính: Nam cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ph tự nguyện không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph là phù hợp với qui định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Vợ chồng chị Ph và anh D xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chị Trần Thị Kim Ph là nguyên đơn trong vụ án nên phải nộp toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa Chị Trần Thị Kim Ph và anh Phạm Tiến D 2. Về nuôi con chung: Giao con Phạm Minh Đ, sinh ngày 17-12-2017, giới tính: Nam cho Chị Trần Thị Kim Ph trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.Về cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung 3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Kim Ph phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Đối trừ khoản tiền tạm ứng án phí chị Ph đã nộp tại biên lai số 0005243 ngày 26-4-2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Kim Ph và anh Phạm Tiến D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con số 250/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:250/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về