Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 61/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 61/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2022/TLST – HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 72/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Mạc Thanh T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: 296 ấp A, xã A, huyện , tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (có mặt)

- Bị đơn: Ông Trần Anh K, sinh năm 1987.

Địa chỉ: 296 ấp A, xã At, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03-3-2022 và trong quá trình tố tụng tại Tòa, nguyên đơn bà Mạc Thanh T trình bày:

Về hôn nhân: Bà T và ông K chung sống với nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01 quyển 1/2011 ngày 19/01/2011. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống tại địa chỉ 296 ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do ông K không lo làm ăn, không lo cho con cái, sống không có trách nhiệm với vợ con dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, chung sống không hạnh phúc. Nên bà T và ông K đã ly thân từ tháng 04/2009 đến nay.

Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không còn hạnh phúc, không còn tình cảm với nhau nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông K.

Về nuôi con chung: Bà T xác nhận bà và ông K có 01 con chung tên Mạc Trần Thúy N, sinh ngày 28/11/2009. Bà T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung và không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Trần Anh K:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông K không đến Tòa án tham gia giải quyết. Tòa án cũng không nhận được văn bản ý kiến hay bản tự khai của ông K.

Tại phiên tòa:

Bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung gì thêm. Ông K đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà T đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn ông K vắng mặt trong quá trình tố tụng là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Mạc Thanh T yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Trần Anh K nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; bị đơn ông Trần Anh K có địa chỉ cư trú tại huyện L nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, ông K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông K theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà T và ông K chung sống với nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01 quyển 1/2011 ngày 19/01/2011. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn hai vợ chồng chung sống tại địa chỉ 296 ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do ông K không lo làm ăn, không lo cho con cái, sống không có trách nhiệm với vợ con, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, chung sống không hạnh phúc. Nên bà T và ông K đã ly thân từ tháng 04/2019 đến nay. Tại Tòa bà T xác định không còn tình cảm với ông K nên yêu cầu được ly hôn.

Kết quả xác minh cho thấy: Bà T và ông K kết hôn năm 2011 và chung sống với nhau tại số 296 ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn nên hai vợ chồng đã ly thân khoảng 3 năm nay, ông K đi làm ăn xa lâu lâu mới về thăm con.

Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa ông K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy bản thân ông K không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng, bỏ mặc đời sống hôn nhân.

Từ những tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp; thực tế xác minh tại địa phương cho thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông K là có thật, theo chiều hướng kéo dài và trầm trọng, ông bà đã thực sự không còn tình cảm với nhau, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông K.

[2.2] Về nuôi con chung: Bà T và ông K có có 01 con chung tên Mạc Trần Thúy N, sinh ngày 28/11/2009. Bà T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung và không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy: Từ khi hai vợ chồng ly thân năm 2019 cho đến nay, cháu N vẫn ở với mẹ, được mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng; cháu N có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ. Để tránh xáo trộn trong sinh hoạt, tâm lý, học tập của cháu. Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà T giao cháu N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về chia tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà T là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[5] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy đình về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Mạc Thanh T ly hôn ông Trần Anh K.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Mạc Trần Thúy N, sinh ngày 28/11/2009 cho bà Mạc Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Bà T không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ đối với con chung. Người không trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không được ai cản trở.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha hoặc mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Mạc Thanh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà T đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008815, ngày 01 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà T đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 61/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:61/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về