Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 46/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 487/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Đ; nơi cư trú: Thôn B, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Văn T; nơi cư trú: Thôn B, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị Đ là nguyên đơn, khởi kiện với nội dung: Chị và anh Vũ Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 07 tháng 5 năm 2001. Sau lễ cưới, chị về chung sống cùng với anh T tại thôn B, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống chung vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do anh T thiếu quan tâm chăm sóc vợ con, hay uống rượu say xỉn. Vợ chồng đều là lao động tự do, làm nông nghiệp tại địa phương, không có thu nhập ổn định dẫn đến kinh tế chung khó khăn. Vợ chồng vì thế mà xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau thường xuyên. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị Đ và anh T đã sống ly thân nhau từ năm 2017 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến ai. Gia đình hai bên đã tham gia khuyên giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Nay, chị Đ nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh T nên chị đề nghị được ly hôn với anh Vũ Văn T. Chị và anh T có hai con chung tên Vũ Duy T, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2001 và Vũ Quang Đ, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2003. Hiện nay các con chung đều đã thành niên và có khả năng lao động nên chị Thu không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị và anh T không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 10 tháng 3 năm 2022, bị đơn là anh Vũ Văn T trình bày thống nhất với lời khai của chị Nguyễn Thị Đ về thời gian, điều kiện kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn. Nay, chị Đ có đơn ly hôn đối với anh, quan điểm của anh T là đồng ý ly hôn. Các con chung tên Vũ Duy T và Vũ Quang Đ đều đã thành niên và có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh và chị Đ không có tài sản chung. Do bận đi làm nên anh T đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh và thông báo kết quả giải quyết cho anh được biết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Về thẩm quyền giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên đã tuân theo đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Nguyễn Thị Đ được ly hôn anh Vũ Văn T. Các con chung tên Vũ Duy T và Vũ Quang Đ đã thành niên và có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Nguyên đơn nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của đương sự Bị đơn là anh Vũ Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về yêu cầu của chị Nguyễn Thị Đ ly hôn với anh Vũ Văn T Chị Nguyễn Thị Đ và anh Vũ Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đủ điều kiện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng. Do đó, hôn nhân giữa chị Đ và anh T là hôn nhân hợp pháp. Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thống nhất thể hiện, mâu thuẫn giữa chị Đ và anh T đã phát sinh và trở nên trầm trọng từ năm 2017. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng trong sinh hoạt, không tìm được tiếng nói chung. Anh T thiếu quan tâm, chăm sóc và xây dựng kinh tế trong gia đình, dẫn đến cuộc sống chung vợ chồng khó khăn và xảy ra nhiều xung đột. Gia đình đều đã động viên, khuyên giải nhưng mâu thuẫn giữa chị Đ và anh T vẫn không được cải thiện. Thực tế, chị Đ và anh T đã sống ly thân nhau từ năm 2017 đến nay, giữa vợ và chồng không còn sự quan tâm, chia sẻ và động viên nhau. Quá trình khởi kiện tại Tòa án và tại phiên tòa, chị Đ giữ nguyên đề nghị được ly hôn với anh Vũ Văn T. Anh T có lời khai thể hiện quan điểm đồng ý ly hôn. Từ những căn cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn giữa chị Đ và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đ xin ly hôn anh T.

[3] Về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Chị Nguyễn Thị Đ và anh Vũ Văn T có hai con chung tên Vũ Duy T, sinh ngày 12 tháng 3 năm 2001 và Vũ Quang Đ, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2003. Chị Đ và anh T đều thống nhất các con chung đã thành niên và có khả năng lao động nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

[4] Về tài sản chung, chị Nguyễn Thị Đ và anh Vũ Văn T thống nhất khai vợ chồng không có tài sản chung và không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.

[5] Về án phí, chị Nguyễn Thị Đ phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Đ 1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Đ được ly hôn anh Vũ Văn T.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Đ và anh Vũ Văn T thống nhất có hai con chung tên Vũ Duy T sinh ngày 12 tháng 3 năm 2001 và Vũ Quang Đ, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2003. Hiện nay các con chung đều đã thành niên và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Đ phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0007769 ngày 21/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Nguyễn Thị Đ đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Vũ Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 46/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về