Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 44/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 44/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 06 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 77/2022/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 88/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị N, sinh năm: 1987.

Địa chỉ: Ấp AL, xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1982.

Địa chỉ: Ấp AL, xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Huỳnh Thị N trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T tự quen biết, qua thời gian tìm hiểu và tự nguyện tiến tới hôn nhân, tổ chức lễ cưới vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 06/11/2006. Sau khi thành hôn, chị và anh T sinh sống cùng với gia đình anh T tại ấp AL, xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu cuộc sống hôn nhân hạnh phúc. Thời gian sau, anh chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về cuộc sống, anh T thường xuyên tham gia cờ bạc, không làm việc và không chăm lo gia đình, anh chị hay cãi vã, nhiều lần anh T đánh chị, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể tiếp tục chung sống nên chị và anh T ly thân từ tháng 5/2021 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, mạnh ai nấy sống không ai quan tâm đến ai. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có ba con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh năm:

17/01/2005, Nguyễn Ngọc S, sinh ngày: 11/4/2008 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày:

02/8/2016. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng ba con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn T vắng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa, anh T cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của anh về những nội dung có liên quan đến yêu cầu khởi kiện của chị N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:

+ Thẩm phán thụ lý và giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Nguyên đơn thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ý, cụ thể:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Ý được ly hôn với anh T.

+ Về con chung: Chị Ý và anh T có ba con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh năm: 17/01/2005, Nguyễn Ngọc S, sinh ngày: 11/4/2008 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày: 02/8/2016. Chị Ý được quyền tiếp tục trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Ngọc V, Nguyễn Ngọc S và Nguyễn Ngọc T, ghi nhận chị Ý không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ý trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Chị Huỳnh Thị N có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa chị với anh Nguyễn Văn T có nơi cư trú tại ấp AL, xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre nên Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre thụ lý, giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng vẫn vắng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn T theo quy định tại các điều 207, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị N và anh Nguyễn Văn T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AT, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 06/11/2006 nên quan hệ hôn nhân giữa chị Ý và anh T được xem là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, chị Ý cho rằng cuộc sống hôn nhân giữa chị và anh T không hạnh phúc do anh chị có sự khác biệt về quan điểm sống, anh T tham gia cờ bạc dẫn đến không làm việc và chăm sóc gia đình, anh chị thường xuyên cãi vã, anh T nhiều lần có hành vi sử dụng bạo lực đối với chị Ý, mâu thuẫn giữa anh chị ngày càng trầm trọng. Từ tháng 5/2021 đến nay, chị Ý và anh T ly thân, không ai quan tâm gì đến ai, anh chị không thể hàn gắn đoàn tụ được. Quá trình Tòa án giải quyết, anh T không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về hôn nhân giữa anh và chị Ý, cũng như anh T không có mặt tại Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhằm mục đích hàn gắn đoàn tụ. Từ đó, cho thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Ý và anh T đã đến mức trầm trọng, không thể đoàn tụ để tiếp tục cuộc sống chung của vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ý đối với anh T.

[2.2] Về con chung: Chị Ý và anh T có ba con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh năm: 17/01/2005, Nguyễn Ngọc S, sinh ngày: 11/4/2008 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày: 02/8/2016. Chị Ý yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng ba con chung.

Xét thấy, khi được Tòa án lấy ý kiến thì cháu S có nguyện vọng được sống cùng chị Ý sau khi chị Ý và anh T ly hôn, ý kiến của cháu S là tự nguyện, không bị ai ép buộc và yêu cầu của chị Ý cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu S. Để bảo đảm nguyện vọng cũng như điều kiện môi trường sống của con, Tòa án nhiều lần tiến hành lấy ý kiến đối với cháu V nhưng không được. Qua xác minh tại địa phương cung cấp: Mặc dù, hiện tại các con đang sống tại nhà anh T nhưng chị Ý thường xuyên đến thăm và chăm sóc các con. Bên cạnh đó, chị Ý có điều kiện để đảm bảo tốt việc nuôi dưỡng các con. Xét về điều kiện của anh T, hiện tại anh T không có công việc và thu nhập ổn định, còn tham gia đánh bạc. Anh T vắng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm, cũng không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến của anh T về việc nuôi con. Do đó, để đảm bảo sự phát triển bình thường của các con cả về thể chất lẫn tinh thần nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Ý, giao con là Nguyễn Ngọc V, Nguyễn Ngọc S và Nguyễn Ngọc T cho chị Ý tiếp tục trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng cho con: Chị Ý không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con nên ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ý trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh T vắng mặt trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm, cũng không có văn bản gửi cho Tòa án để thể hiện ý kiến của anh T về việc yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre tại phiên tòa là phù hợp với các nhận định nêu trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Ý là người khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị N, cụ thể:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Chị Huỳnh Thị N và anh Nguyễn Văn T có ba con chung tên Nguyễn Ngọc V, sinh năm: 17/01/2005, Nguyễn Ngọc S, sinh ngày: 11/4/2008 và Nguyễn Ngọc T, sinh ngày: 02/8/2016.

Chị Huỳnh Thị N được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Ngọc V, Nguyễn Ngọc S và Nguyễn Ngọc T.

Ghi nhận chị Huỳnh Thị N không yêu cầu anh Nguyễn Văn T cấp dưỡng cho con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nuôi con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

Vì lợi ích của con chung, chị Huỳnh Thị N, anh Nguyễn Văn T hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, chị Huỳnh Thị N, anh Nguyễn Văn T có thể thỏa thuận việc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con, phương thức cấp dưỡng nuôi con, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Huỳnh Thị N và anh Nguyễn Văn T không có tài sản chung nên không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị Huỳnh Thị N và anh Nguyễn Văn T không có nợ chung nên không xem xét.

5. Về án phí: Chị Huỳnh Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Ý đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005708 ngày 02 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Chị Huỳnh Thị N đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 44/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:44/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về