TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 97/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 341/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 92/2021/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1991, có mặt.
Địa chỉ: khu phố 1, thị trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai.
2.Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1986, có mặt.
Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/5/2021, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng L trình bày:
Chị và anh Nguyễn Ngọc H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2014 tại UBND thị trấn G, huyện X, tỉnh Đồng Nai, đây là kết hôn lần đầu của anh chị. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp vàanh chị không còn chung sống với nhau từ tháng 3/2021 đến nay. Nay chị không còn tình cảm với anh H nên yêu cầu ly hôn với anh H.
Vợ chồng chung sống có 01 con chung là cháu Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày: 10/7/2015. Hiện nay cháu Kh đang do chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị L yêu cầu nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Ngọc H trình bày: Anh H thống nhất lời lời trình bày của chị L về điều kiện kết hôn, diễn biến cuộc hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn, con chung tài sản chung và nợ chung. Nay chị L yêu cầu ly hôn, anh H đồng ý vì hiện nay anh chị cũng không còn chung sống với nhau nữa.
Anh thống nhất với lời trình bày của chị L là vợ chòng có 01 con chung là cháu Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 10/7/2015. Hiện nay, cháu Kh đang do chị L nuôi dưỡng, anh không đồng ý giao con cho chị L nuôi dưỡng vì chị L thường cho cháu sử dụng điện thoại để chơi game và ít có thời gian chăm sóc con.
Hiện nay anh làm công nhân của Công ty Donastard, mức thu nhập của anh từ 14 đến 15 triệu đồng, anh làm theo ca nên có thời gian chăm sóc con hơn chị L làm việc theo giờ hành chính.
Về tài sản chung: Anh không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, còn bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung vụ án: Anh H và chị L không còn chung sống với nhau từ năm 2020, cả hai không còn quan tâm chăm sóc cho nhau nữa, anh H cũng đồng ý ly hôn với chị L. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận thuận tình ly hôn giữa chị L và anh H.
Về con chung: Chị L yêu cầu được nuôi con chung Nguyễn Đăng Kh và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu Kh hiện nay còn nhỏ và đang do chị L nuôi dưỡng nên tiếp tục giao cháu Kh cho chị L nuôi dưỡng là phù hợp. Về tài sản chung, nợ chung đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Hồng L khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Ngọc H và yêu cầu nuôi con, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Xét yêu cầu của các đương sự thì thấy: Chị L và anh H đều thừa nhận vợ chồng không chung sống với nhau từ tháng 3/2020 đến nay, nay chị L yêu cầu ly hôn và anh H đồng ý, như vậy chứng tỏ mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho chị L được thuận tình ly hôn với anh H.
[2] Về con chung: chị Nguyễn Thị Hồng L yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 10/7/2015 và không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc H cấp dưỡng nuôi con, anh H cũng yêu cầu nuôi cháu Kh và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con vì anh H cho rằng chị L không chăm sóc tốt cho con, cháu Kh ở nhà ăn sáng mà 9h mới ăn, thường chơi game, coi phim, điện thoại. Tuy nhiên, chị L không đồng ý với yêu cầu của anh H vì chị L cho rằng chị làm công nhân giờ hành chính, còn anh H làm ca không có thời giam chăm sóc con, với lại cháu Kh từ nhỏ đã sống quen có chị nên không thể giao con cho anh H chăm sóc được, việc anh H cho rằng chị nuôi con mà 9h sáng mới cho cháu ăn, chơi game và không chăm con là không đúng vì chị vẫn chăm cháu tốt, tuy nhiên cháu còn nhỏ nên thỉnh thoảng có chơi game và coi phim nhưng không phải thường xuyên như anh H trình bày.
Xét thấy, cháu Nguyễn Đăng Kh đang do chị Nguyễn Thị Hồng L là mẹ đang trực tiếp nuôi dưỡng, cháu hiện nay còn nhỏ do vậy cháu vẫn rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Chị L đang làm công nhân, thu nhập khoảng 11.000.000đồng/ tháng. Anh H trình bày anh làm công nhân có thu nhập mỗi tháng từ 14.000.000đồng đến 15.000.000đồng. Xét về điều kiện kinh tế, việc làm thì anh H và chị L đều có thu nhập ổn định và đều có khả năng kinh tế để nuôi con. Tuy nhiên, xét về quá trình nuôi con thì cháu Kh từ nhỏ đã sống và do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, cháu đã quen với sự chăm sóc của chị L, quen với môi trường đang sống.
Từ các nhận định trên, nên giao cháu Kh cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về tài sản chung: Không giải quyết
[5] Về nợ chung: Không giải quyết.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.
[7] Nhận định của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Hồng L và anh Nguyễn Ngọc H
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 10/7/2015 cho chị Nguyễn Thị Hồng L trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Tạm thời không yêu cầu anh Nguyễn Ngọc H cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Hồng L không yêu cầu.
Anh Nguyễn Ngọc H được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản.
Khi cần thiết, anh Nguyễn Ngọc H và chị Nguyễn Thị Hồng L được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: không giải quyết.
4. Về án phí: chị Nguyễn Thị Hồng L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc theo biên lai thu số 0006750 ngày 28/5/2021được tính trừ vào án phí.
Chị Nguyễn Thị Hồng L, anh Nguyễn Ngọc H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 97/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 97/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về