Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 90/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị N, sinh năm 1993; địa chỉ: thôn N, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn 1, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24/5/2022, bản tự khai ngày 06/6/2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Đinh Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn T kết hôn với nhau vào ngày 11/3/2014 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã N, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình của vợ chồng không còn hòa hợp, anh T không chịu làm ăn và không quan tâm đến vợ con. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12/2016 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau nữa, anh T cũng không quan tâm gì đến con chung. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con: Vợ chồng có một con chung là Phạm Thị Diệu L sinh ngày 06/11/2014. Hiện nay cháu đang ở với mẹ. Chị N đề nghị được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, nên chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn Phạm Văn T: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã giao thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ cho anh T (thông qua mẹ đẻ anh T) nhưng anh T đều vắng mặt, không đến Tòa án để thực hiện việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa lần thứ nhất anh T vắng mặt nên Hội đồng xét xử (HĐXX) đã ra quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt anh T.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS); những người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành quyền và nghĩa vụ theo quy định. Về giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị N, cho chị N được ly hôn anh Phạm Văn T; về con: giao cháu Phạm Thị Diệu L sinh ngày 06/11/2014 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về án phí: chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (DSST) về việc ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về thủ tục tố tụng: Chị Đinh Thị N có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Phạm Văn T. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, anh Phạm Văn T vắng mặt tại phiên tòa nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt đối với anh T.

* Về nội dung giải quyết:

[1] Về hôn nhân: Chị Đinh Thị N và anh Phạm Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị N trình bày là do tính tình của vợ chồng không còn hòa hợp, anh T không chịu làm ăn và không quan tâm đến vợ con, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12/2016 cho đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Qua xác minh tại địa phương thì thấy: hiện tại anh T và chị N đã sống ly thân, chị N và con gái đang sinh sống tại quê ngoại, còn anh T đi làm kinh tế, thỉnh thoảng về thăm gia đình. Từ những mâu thuẫn nêu trên, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, bản thân anh T cũng không có ý kiến gì về yêu cầu ly hôn của chị N, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N, cho chị N được ly hôn anh T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về con: Vợ chồng có một con chung là Phạm Thị Diệu L sinh ngày 06/11/2014. Chị N đề nghị được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, hiện nay cháu L đang ở cùng với mẹ, nguyện vọng của cháu là được ở với mẹ, còn anh T không có ý kiến gì, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị N, giao cháu L cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung do chị N không yêu cầu là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tài sản: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản, còn anh T không có ý kiến gì, nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị N phải chịu án phí DSST về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 BLTTDS; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đinh Thị N, cho chị N được ly hôn anh Phạm Văn T.

2. Về con: Giao cháu Phạm Thị Diệu L sinh ngày 06/11/2014 cho chị Đinh Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, anh Phạm Văn T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đinh Thị N phải chịu án phí DSST về việc ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí toà án số AA/2021/0014928 ngày 24/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn, chị N đã nộp đủ án phí DSST.

Về quyền kháng cáo: Chị Đinh Thị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Phạm Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về