TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH Y
BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 05 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXX-ST ngày 22 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Ng 39 tuổi Địa chỉ: Thôn Tr- xã TL- huyện L- tỉnh Y.
Bị đơn: Anh Nông Văn T 46 tuổi Địa chỉ: Thôn Tr- xã TL- huyện L- tỉnh Y.
Các đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 17-02-2022 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Hoàng Thị Ng trình bày: Chị và anh Nông Văn T kết hôn tháng 02 năm 2004 trên cơ sở tự N, đăng ký kết hôn lại tại UBND xã TL- huyện L- tỉnh Y. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh T hay uống rượu say về chửi bới, đánh đập vợ con; không quan tâm đến gia đình… Mặc dù đã được anh em trong nhà khuyên nhủ nhưng anh T không thay đổi. Hai người đã sống ly thân được ba năm không còn quan tâm đến nhau nữa. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Vợ chồng có hai cháu là Nông Thị N sinh ngày 17-10-2001 và Nông Thị H sinh ngày 19-10-2006, khi ly hôn chị sẽ nuôi cháu H, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung chị không yêu cầu giải quyết.
Trong biên bản lấy lời khai bị đơn là anh Nông Văn T trình bày cơ bản như lời khai của chị Ng, tuy nhiên theo anh nguyên nhân mâu thuẫn là do chị Ng đi làm thuê không được sự đồng ý của anh, không quan tâm đến gia đình, không gửi tiền về nuôi con... Nay xác định vẫn còn tình cảm nhưng nếu chị Ng ly hôn anh cũng đồng ý. Về con chung, khi ly hôn việc ở với ai sẽ do con quyết định; nếu chị Ng đảm bảo chăm sóc, nuôi dưỡng được con anh cũng nhất trí. Về tài sản chung, nợ chung anh cũng không yêu cầu giải quyết.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại pH tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho chị Ng được ly hôn với anh T, giao cháu Nông Thị H cho chị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị Ng phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tranh chấp giữa chị Hoàng Thị Ng và anh Nông Văn T là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; các đương sự có địa chỉ thường trú tại xã TL- huyện L- tỉnh Y nên Tòa án nhân dân huyện L thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chị Hoàng Thị Ng và anh Nông Văn T có đơn đề nghị vắng mặt nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định tại khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Hoàng Thị Ng và anh Nông Văn T kết hôn năm 2004, việc kết hôn này tuân thủ đúng những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.
Tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Theo lời khai của các đương sự cho thấy do nhiều nguyên nhân nên trong những năm qua vợ chồng chị Ng- anh T không hạnh phúc, trong đó nguyên nhân chính là do quan điểm, tính cách, lối sống không hợp nhau; hai người cũng đã có thời gian dài sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Qúa trình giải quyết, mặc dù không thể tham gia phiên hoà giải nhưng trong lời khai anh Nông Văn T cũng thừa nhận vợ chồng sống không hạnh phúc và nhất trí ly hôn. Qua đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Ng- anh T đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Ng có căn cứ chấp nhận.
[3] Về con chung:
Chị Ng và anh T có hai cháu là Nông Thị N sinh ngày 17- 10-2001 và Nông Thị H sinh ngày 19-10-2006, cháu N đã trưởng thành hiện đang đi làm. Qúa trình giải quyết vụ án quan điểm của anh T nhất trí để chị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nông Thị H. Xét thấy quan điểm này là hoàn toàn tự N, phù hợp với N vọng của cháu H, phù hợp hoàn cảnh thực tế cần ghi nhận. Do chị Ng không yêu cầu nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung.
[4] Về tài sản chung; nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Ng phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 228; điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Hoàng Thị Ng được ly hôn với anh Nông Văn T.
2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; giao cháu Nông Thị H sinh ngày 19-10-2006 cho chị Hoàng Thị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nông Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.
3- Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chị Hoàng Thị Ng phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị Ng đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2021/0002173 ngày 17-02-2022.
4- Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 271, điều 273, Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 34/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 34/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về