Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 72/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị T, sinh năm 1979; HKTT: Ấp H, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T1, sinh năm 1979; HKTT: Ấp C, xã T2, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn đề ngày 11/02/2022, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn (bà T) trình bày:

Bà T và ông T1 là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2013, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T2, huyện D, tỉnh Bình Dương ngày 11/4/2014.

Trong thời gian chung sống, vợ chồng thường bất đồng quan điểm sống, thường hay cải vã nhau, cuộc sống hôn nhân không còn tình cảm, không có hạnh phúc. Bà T và ông T1 không chung sống với nhau từ tháng 4/2014 cho đến nay. Vì vậy, bà T làm đơn xin ly hôn với ông T1.

- Về hôn nhân: Bà T yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Tấn T2.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Hồ Thành T3, sinh ngày 11/3/2014. Bà T yêu cầu nuôi con chung và yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, bà T không có ý kiến gì khác.

* Theo biên bản lấy lời khai ngày 04/3/2022, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn (ông T1) trình bày:

Ông T1 thống nhất với lời trình bày của bà T về quá trình chung sống, đăng ký kết hôn và con chung.

- Về hôn nhân: Trước yêu cầu xin ly hôn của bà T, ông T1 đồng ý ly hôn.

- Con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Hồ Thành T3, sinh ngày 11/3/2014. Ông T1 đồng ý giao con chung cho bà T chăm sóc nuôi dưỡng, và ông cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 800.000 đồng cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

- Tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, ông T1 không có ý kiến gì khác.

* ại di n i n ki m sát phát bi u tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ, đúng trình tự thủ tục, người tham gia tố tụng đúng thành phần. Phiên tòa được tiến hành đúng trình tự. Nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy nguyên đơn yêu cầu ly hôn, nuôi con là có cơ sở chấp nhận. Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nguyên đơn yêu cầu có cơ sở chấp nhận một phần.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Hồ Thị T khởi kiện ông Nguyễn Tấn T1 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Ông T1 có nơi cư trú tại ấp C, xã T2, huyện D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn (bà T) [2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông T1 chung sống với nhau từ năm 2013, hôn nhân tự nguyện có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T2, huyện D, tỉnh Bình Dương ngày 11/4/2014. Do đó đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về mâu thuẫn hôn nhân: Bà T cho rằng bà và ông T1 thường bất đồng quan điểm sống, hay cãi vã nhau, cuộc sống hôn nhân không còn tình cảm, không có hạnh phúc. Vì vậy, bà T làm đơn xin ly hôn với ông T1. Trước yêu cầu xin ly hôn của bà T thì ông T1 đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy: Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, thế nhưng cuộc sống vợ chồng giữa bà T và ông T1 không đạt được những điều đó. Giữa bà T và ông T1 không còn tình cảm, chung sống không còn hạnh phúc, mâu thuẫn xảy ra đã lâu nhưng bà T, ông T1 không hàn gắn được. Bà T yêu cầu ly hôn và ông T1 đồng ý nên ghi nhận.

[3] Về con chung: Bà T và ông T1 có 01 con chung tên Nguyễn Hồ Thành T3, sinh ngày 11/3/2014. Bà T và ông T1 thống nhất giao con chung cho bà T nuôi dưỡng. Mặc khác, cháu T3 có ý kiến là được sống với mẹ. Do đó, thấy rằng sự thỏa thuận của bà T và ông T1 về việc giao cho bà T nuôi con chung là phù hợp nên ghi nhận.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng, ông T1 chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 800.000 đồng. Tòa án có tiến hành xác minh tại địa phương về công việc, thu nhập của ông T1 thì được biết ông Thành làm nghề mua bán phân bò, thu nhập cụ thể của ông T1 thì địa phương không biết. Ngoài ra, ông T1 có cung cấp cho Tòa án hồ sơ xét nghiệm thể hiện ông T1 bị bệnh đái tháo đường không phụ thuộc insuline, bệnh lý tăng huyết áp, đau bụng và vùng chậu. Hội đồng xét xử xét thấy, nuôi con là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ. Ông T1 không nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tòa án ra thông báo yêu cầu bà T cung cấp chứng cứ chứng minh thu nhập của ông T1 đủ để cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000 đồng nhưng bà T không cung cấp. Ông T1 đồng ý cấp dưỡng nuôi con 800.000 đồng/tháng. Tuy nhiên mức cấp dưỡng ông T1 đưa ra là thấp nên cần buộc ông T1 cấp dưỡng với mức 1.000.000 đồng/tháng mới đủ chi phí nuôi con.

[5] Tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng là phù hợp nên chấp nhận.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà T, ông T1 phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào các Điều 9, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị T đối với ông Nguyễn Tấn T1 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Tấn T1.

2. Về con chung: Giao cho bà Hồ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hồ Thành T3, sinh ngày 11/3/2014.

Ông Nguyễn Tấn T1 cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi.

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bà T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông T1 không cấp dưỡng số tiền trên, thì hàng tháng ông T1 còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí: Bà Hồ Thị T chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0007180 ngày 11 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương.

Ông Nguyễn Tấn T1 chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về