Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 84/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 84/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 672/2022/TLST-HNGĐ  ngày 30 tháng 8 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2022/QĐXX-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lương Thị Thanh H, sinh năm 1984 (có mặt). Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

Bị đơn: Ông Trần Đăng T, sinh năm 1988 (xin xét xử vắng mặt)  Địa chỉ: Thôn C, xã T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/8/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lương Thị Thanh H trình bày: Bà và ông Trần Đăng T tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân. Vợ chồng không tổ chức cưới hỏi. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận vào năm 2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại nhà mẹ ruột của bà ở thôn Đ, xã H, huyện N. Quá trình chung sống, chồng bà thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện và đánh đập vợ con, bà đã nhiều lần khuyên nhủ, chịu đựng và tha thứ nhưng chồng bà vẫn tính nào tật nấy, không chịu thay đổi. Chồng bà thường dùng tay và chân đánh nhiều cái vào vùng đầu, mặt và bụng của tôi. Bà có đến bệnh viện Sài Gòn – Phan Rang để khám và mua thuốc uống. Ngoài ra, bà cũng đã làm đơn gửi Công an xã Hộ Hải về hành vi đánh đập vợ con của chồng bà. Hiện vợ chồng không sống chung với nhau, chồng bà đã chuyển về sống với mẹ ruột tại thôn C, xã T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận từ đầu tháng 8/2022 đến nay. Từ khi chồng chuyển đi, vợ chồng không còn liên lạc với  nhau, chồng bà cũng không về thăm con. Nay bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông Trần Đăng T, do đó đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trần Đăng T.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung gồm: Trần Đăng H – sinh ngày  25/10/2011, Trần Kim T - sinh ngày 24/10/2013 và Trần Đăng Nh - sinh ngày  09/11/2015. Hiện các con đều sống cùng bà, bà làm nghề buôn bán ở chợ thu nhập trung bình hàng tháng khoảng 7.500.000 đồng đủ khả năng để nuôi các con. Do đó, ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/9/2022, bị đơn ông Trần Đăng T trình bày: Ông và bà Lương Thị Thanh H là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hiện vợ chồng đã sống ly thân, không còn liên lạc với nhau. Nay vợ ông làm đơn yêu cầu xin ly hôn thì ông cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung gồm: Trần Đăng H – sinh ngày  25/10/2011, Trần Kim T - sinh ngày 24/10/2013 và Trần Đăng Nh - sinh ngày  09/11/2015. Ly hôn, ông đồng ý giao cả 03 con chung cho vợ ông trực tiếp nuôi dưỡng, ông không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Do ông bận công việc nên không có thời gian đến Tòa án tham gia tố tụng, vì vậy ông xin Tòa án giải quyết vắng mặt ông tại các buổi công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử. Ông cam kết không khiếu nại gì về sau.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà Lương Thị Thanh H đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân. Bị đơn ông Trần Đăng T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông T chỉ có lời khai và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, cùng với tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án để làm cơ sở giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị Thanh H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe đương sự trình bày ý kiến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]  Về thủ tục tố tụng: Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại thôn C, xã T, thành phố P nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/9/2022, bị đơn ông Trần Đăng T có yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị Thanh H và ông Trần Đăng T tự nguyện tìm hiểu, sống chung và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã H, huyện N, tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận kết hôn số 57/2011 ngày 29/6/2011, đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà Lương Thị Thanh H và ông Trần Đăng T đều thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc; hiện vợ chồng đã sống ly thân, không còn liên lạc với nhau. Tình trạng mâu thuẫn của ông T bà H phù hợp với lời trình bày của mẹ ruột và cậu ruột của bà H là bà Nguyễn Thị Thanh T1 và ông Nguyễn Đình Th. Mặt khác, Quá trình giải quyết vụ án, bà H và ông T đều đồng ý ly hôn, không có nguyện vọng hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà H là có căn cứ và được chấp nhận theo quy định tại Điều 56  Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung gồm: Trần Đăng H – sinh ngày 25/10/2011, Trần Kim T - sinh ngày 24/10/2013 và Trần Đăng Nh - sinh ngày  09/11/2015. Xét thấy, con chung đã trên 07 tuổi và đều có nguyện vọng xin được sống cùng mẹ. Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/9/2022, ông Trần Đăng T cũng đồng ý giao con chung cho bà Lương Thị Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, yêu cầu  được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà H là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con do bà H không yêu cầu nên ông T không có  nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H và ông T xác định không có  nên  Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà Lương Thị Thanh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều  147, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị  Thanh H.

1. Về hôn nhân: Bà Lương Thị Thanh H được ly hôn với ông Trần Đăng T.

2. Về con chung: Giao các cháu Trần Đăng H – sinh ngày 25/10/2011, Trần Kim T - sinh ngày 24/10/2013 và Trần Đăng Nh - sinh ngày 09/11/2015 cho bà Lương Thị Thanh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông Trần Đăng T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà H không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con, lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lương Thị Thanh H và ông Trần Đăng T  xác định không có.

4. Về án phí: Bà Lương Thị Thanh H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)  án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba  trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền số: 0004462 ngày 25/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Lương Thị Thanh H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 84/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:84/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về