Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH Y

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 222/2021/HNGĐ-ST ngày 25 tháng 11 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXX-ST ngày 25 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Hoàng Ngọc N 30 tuổi Địa chỉ: Thôn Ch- xã LT- huyện L- tỉnh Y, có mặt.

Bị đơn: Chị Hoàng Thị Ch 25 tuổi Địa chỉ: Thôn Ch- xã LT- huyện L- tỉnh Y, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 24-11-2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là anh Hoàng Ngọc N trình bày: Anh và chị Hoàng Thị Ch kết hôn tháng 10 năm 2015 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã LT- huyện L- tỉnh Y. Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc, đến năm 2020 xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là trong thời gian vợ chồng cùng đi làm dưới Hải Phòng chị Hoàng Thị Ch không thật thà với anh, đi làm thì không thấy có tiền; đi đâu cũng không nói cho anh biết; nợ nần rất nhiều, có lần anh và gia đình đã phải hỗ trợ trả nợ cho. Dù đã nhờ hai bên gia đình liên lạc gọi về để cùng anh làm ăn, nuôi con nhưng chị Hoàng Thị Ch về được khoảng 1 tuần nói không còn tình cảm với anh rồi lại bỏ đi. Từ dịp nghỉ lễ 30/4/2021 chị Chị đã cắt liên lạc với anh, vợ chồng sống ly thân từ đó. Mặc dù vẫn còn tình cảm nhưng do chị Hoàng Thị Ch kiên quyết không về, bỏ cả con để đi nên anh đề nghị giải quyết cho ly hôn. Về con chung: Anh và chị Hoàng Thị Ch có một cháu là Hoàng Thảo M sinh ngày 28-6-2015; khi ly hôn anh sẽ nuôi cháu M, không yêu cầu chị Chị phải cấp dưỡng nuôi con. Thời gian chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không nợ của ai.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện L- tỉnh Y đã ra văn bản thông báo và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị Hoàng Thị Ch vắng mặt nên Toà án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục pháp luật quy định.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ; bị đơn đã được triệu tập nhưng không có mặt là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên xử cho anh N được ly hôn với chị Ch, giao con cho anh N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; anh N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa anh Hoàng Ngọc N và chị Hoàng Thị Ch là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; các đương sự có địa chỉ thường trú tại xã LT- huyện L- tỉnh Y nên Tòa án nhân dân huyện L thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Mặc dù đã được triệu tập, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng chị Hoàng Thị Ch vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án; vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Anh Hoàng Ngọc N và chị Hoàng Thị Ch kết hôn năm 2015, việc kết hôn này tuân thủ đúng những quy định của Luật Hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại điều 19 luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Kết quả xác minh tại địa phương cơ bản phù hợp với lời khai của nguyên đơn cho thấy do nhiều nguyên nhân nên trong thời gian qua vợ chồng anh N- chị Ch không hạnh phúc, trong đó nguyên nhân chính là do quan điểm, tính cách, lối sống không hợp nhau. Hai người cũng đã có thời gian dài sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Tại phiên toà anh Hoàng Ngọc N khẳng đình tình cảm vợ chồng không còn và kiên quyết đề nghị giải quyết cho ly hôn. Qua đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa anh N và chị Ch đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh N có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung:

Anh N và chị Chị có một cháu là Hoàng Thảo M sinh ngày 28-6-2015. Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh N đề nghị được nuôi cháu M, không yêu cầu chị Ch phải cấp dưỡng nuôi con. Xét hoàn cảnh thực tế chị Ch đang đi làm xa; trong suốt thời gian vợ chồng sống ly thân, cháu M thường xuyên ở với bố. Để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, cần giao cháu Hoàng Thảo M cho anh N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, phù hợp với quy định của pháp luật. Do anh N không yêu cầu nên chị Ch không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung.

[4] Về tài sản chung; nợ chung: Anh N xác định không có.

[5] Về án phí: Anh N phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L- tỉnh Y về việc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, anh Hoàng Ngọc N được ly hôn với chị Hoàng Thị Ch.

2- Về con chung: Căn cứ các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đìnhgiao cháu Hoàng Thảo M sinh ngày 28-6-2015 cho anh Hoàng Ngọc N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Hoàng Thị Ch không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị Chị thực hiện quyền này.

3- Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; anh Hoàng Ngọc N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận anh N đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L- tỉnh Y theo biên lai số AA/2021/0002097 ngày 25-11-2021.

4- Quyền kháng cáo: Căn cứ điều 271, điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; anh Hoàng Ngọc N có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị Hoàng Thị Ch có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về