TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 92/2022/TLST - HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022, về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2022/QĐST - HNGĐ, ngày 08 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trương Thị Diễm P, sinh năm 1994 (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Số 20, tổ 10, ấp N, xã G, huyện R, tỉnh Kiên Giang.
Bị đơn: Ông Lâm Hoàng T, sinh năm 1991 (Vắng mặt không có lý do) Địa chỉ: Ấp M, xã I, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/01/2022 và lời khai của nguyên đơn bà Trương Thị Diễm P trong quá trình giải quyết vụ án như sau:
Bà P và ông Lâm Hoàng T chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè. Quá trình chung sống có 01 con chung tên Lâm Hoàng L, sinh ngày 19/9/2015 hiện nay bà P nuôi dưỡng.
Nguyên nhân mâu thuẫn do bà P và ông T bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau, chung sống với nhau không có hạnh phúc nên không còn sống chung với nhau từ tháng 10 năm 2021 đến nay.
Nay bà P không còn tình cảm vợ chồng với ông T nên yêu cầu ly hôn với ông Lâm Hoàng T.
Về con chung: Bà P yêu cầu nuôi con chung tên Lâm Hoàng L và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà P không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Bà P khai bà P và ông T không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Lâm Hoàng T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để thông báo và triệu tập ông T tham gia tố tụng nhưng ông T không có mặt cũng không có lời khai cung cấp cho Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành của người tham gia tố tụng: Đối với nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Diễm P, cho bà Trương Thị Diễm P ly hôn với ông Lâm Hoàng T. Về con chung: Giao con chung tên Lâm Hoàng L, sinh ngày 19/9/2015 cho bà P trực tiếp nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về nợ chung: Không có nên không xem xét. Về án phí: Buộc bà Trương Thị Diễm P chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” và bị đơn cư trú tại ấp M, xã I, huyện C, tỉnh Trà Vinh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Trương Thị Diễm P có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Đối với bị đơn ông Lâm Hoàng T, sau khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông T, nhưng ông T vắng mặt nên mẹ ruột ông T là bà Nguyễn Thị S nhận thay và đã giao lại cho ông T các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định tại khoản 5 Điều 177 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nên ông T đã biết Tòa án đang thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà P và biết Tòa án triệu tập ông T đến Tòa tham gia tố tụng, tham gia phiên tòa nhưng ông T vắng mặt 02 lần không có lý do. Căn cứ vào Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Trương Thị Diễm P và ông Lâm Hoàng T.
[3] Về hôn nhân: Bà Trương Thị Diễm P và ông Lâm Hoàng T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tam Ngãi, huyện Cầu Kè vào năm 2014. Căn cứ Điều 9, 11, 12 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, việc xác lập quan hệ vợ chồng của bà Trương Thị Diễm P và ông Lâm Hoàng T được công nhận là hôn nhân hợp pháp.
[4] Xét yêu cầu ly hôn của bà Trương Thị Diễm P: Bà P và ông T chung sống với nhau vào năm 2014, nguyên nhân mâu thuẫn là bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, chung sống với nhau không có hạnh phúc nên bà P yêu cầu ly hôn với ông T. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông T 02 lần. Nhằm để hòa giải, tạo điều kiện cho bà P và ông T hàn gắn nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do. Như vậy, ông T đã không có thiện chí hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà P. Đồng thời, theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bà P cũng xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông T. Căn cứ theo Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống bà P và ông T do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cãi nên không còn sống chung từ tháng 10 năm 2021 cho đến nay và hiện nay cũng không có biện pháp hàn tình cảm vợ chồng. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà P và ông T đã xảy ra trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà bà P, cho bà P ly hôn với ông T là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
[5] Về con chung: Bà P yêu cầu được nuôi con chung tên Lâm Hoàng L, sinh ngày 19/9/2015 và nguyện vọng của cháu Lâm Hoàng L cũng muốn sống với bà P. Xét thấy, từ trước đến nay cháu Lâm Hoàng L do bà P trực tiếp nuôi dưỡng và bà P vẫn đảm bảo việc nuôi con tốt nên giao cháu Lâm Hoàng L cho bà P tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
[6] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Tòa án đã giải thích việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật nhưng bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con tên Lâm Hoàng L nên Tòa không xem xét giải quyết.
[7] Về tài sản chung: Bà P không yêu cầu giải quyết nên Tòa không xem xét giải quyết.
[8] Về nợ chung: Bà P khai bà P và ông T không có nợ chung nên Tòa không xem xét giải quyết.
[9] Về án phí: Bà Trương Thị Diễm P phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[10] Quan điểm về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[11] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 5 Điều 177, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 9, 11, 12 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Căn cứ Điều 9, 19, 51, 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Diễm P.
Về hôn nhân: Cho bà Trương Thị Diễm P ly hôn với ông Lâm Hoàng T.
Về con chung: Giao con chung tên Lâm Hoàng L, sinh ngày 19/9/2015 cho bà Trương Thị Diễm P trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trương Thị Diễm P không yêu cầu ông Lâm Hoàng T cấp dưỡng nuôi con Lâm Hoàng L, sinh ngày 19/9/2015 nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Về tài sản chung: Bà Trương Thị Diễm P không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Về nợ chung: Bà Trương Thị Diễm P khai bà Trương Thị Diễm P và ông Lâm Hoàng T không có nợ chung, nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Về án phí sơ thẩm: Bà Trương Thị Diễm P phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0009127, ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cầu Kè. Bà Trương Thị Diễm P đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Trương Thị Diễm P và bị đơn ông Lâm Hoàng T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án; theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 26/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 26/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về