Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 195/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 195/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 261/2021/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 147/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Đ, sinh năm 1974; Địa chỉ: Thôn A1, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trần Văn T1, sinh năm 1972; Địa chỉ: Thôn A1, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16 tháng 6 năm 2021 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Bùi Thị Đ (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương năm 1995, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 87 ngày 05 tháng 8 năm 2002 và hôn nhân có hiệu lực từ ngày 12/3/1995. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại thôn A1, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2020 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn T1.

Về con chung: Chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 có ba con chung tên là Trần Thị Hạ N sinh ngày 07/12/1996, Trần Trung H sinh ngày 31/7/2002 và Trần Thị Diễm Q sinh ngày 25/10/2006. Con tên Trần Thị Hạ N, Trần Trung H đã thành niên, khỏe mạnh và có khả năng lao động nên chị không có đề nghị gì. Hiện con tên Trần Thị Diễm Q đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và do chị đang nuôi dưỡng nên khi ly hôn chị xin nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh Trần Văn T1 tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Đ không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Bị đơn là anh Trần Văn T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng không trình bày quan điểm của mình.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng.

Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1. Giao con chung tên là Trần Thị Diễm Q sinh ngày 25/10/2006 cho chị Bùi Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 tự thỏa thuận giao nhận cho nhau. Về tài sản chung vợ chồng do Tòa án không thụ lý giải quyết khi ly hôn nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được, anh Trần Văn T1 không có ý kiến gì nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Bùi Thị Đ vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Trần Văn T1 đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 87 ngày 05 tháng 8 năm 2002 và hôn nhân có hiệu lực từ ngày 12/3/1995 là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra va chạm, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ năm 2020 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Bùi Thị Đ xin ly hôn với anh Trần Văn T1. Anh Trần Văn T1 không trình bày quan điểm thể hiện chưa thực sự quan tâm đến hôn nhân. Căn cứ vào thực tế của quan hệ hôn nhân và quy định của pháp luật, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Bùi Thị Đ với anh Trần Văn T1.

[3] Về con chung: Chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 có ba con chung tên là Trần Thị Hạ N sinh ngày 07/12/1996, Trần Trung H sinh ngày 31/7/2002 và Trần Thị Diễm Q sinh ngày 25/10/2006. Hiện nay con tên Trần Thị Hạ N, Trần Trung H đã đủ 18 tuổi và khỏe mạnh, có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Khi ly hôn chị Bùi Thị Đ đề nghị được nuôi con Trần Thị Diễm Q, anh Trần Văn T1 không trình bày quan điểm của mình. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 đều có điều kiện nuôi con, hiện con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và đang do chị Bùi Thị Đ nuôi dưỡng, con có nguyện vọng ở với mẹ. Căn cứ vào tình hình thực tế và quy định của pháp luật nên áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị Bùi Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị Bùi Thị Đ trình bày để tự thỏa thuận và anh Trần Văn T1 không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Bùi Thị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Trần Thị Diễm Q sinh ngày 25/10/2006 cho chị Bùi Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Bùi Thị Đ và anh Trần Văn T1 không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Đ phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Bùi Thị Đ đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0015967 ngày 25 tháng 6 năm 2021; Chị Bùi Thị Đ đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Đ, anh Trần Văn T1 không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 195/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:195/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về