Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 114/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 114/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06/12/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 266/2021/TLST-HNGĐ, ngày 21/10/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 186/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/11/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1994 Địa chỉ: Số 826, tổ 3, ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1990 Địa chỉ: Tổ 3, ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre (Chị H và anh H1 cùng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn H1 kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 25/7/2012; hôn nhân do tự nguyện. Sau khi kết hôn, anh chị sống tại số 826, tổ 3, ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu thuẫn phát sinh hàng ngày, vợ chồng thường xuyên cự cãi. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh Nguyễn Văn H1 nữa, chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Chị H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn H1, không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.

- Về con chung: Chị H và anh Nguyễn Văn H1 có 2 con chung là: Nguyễn Thị Mỹ C, sinh ngày 23/6/2012; Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 30/5/2014. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi 2 con chung, không yêu cầu anh Nguyễn Văn H1 cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị H khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị H khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bận công việc nên chị H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt chị. Theo bị đơn anh Nguyễn Văn H1 trình bày:

- Về hôn nhân: Anh H1 đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Mỹ H.

- Về con chung: Anh H1 đồng ý giao 2 con Nguyễn Thị Mỹ C, sinh ngày 23/6/2012 và Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 30/5/2014 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, anh H1 không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Anh H1 khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. anh.

- Về nợ chung: Anh H1 khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc nên anh H1 có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như ban đầu.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H1 có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt và đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh Nguyễn Văn H1 chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình trong giai đoạn hòa giải.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Chị Nguyễn Thị Mỹ H khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H1 và được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên.

Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Bị đơn anh Nguyễn Văn H1 hiện đang cư trú tại ấp B, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre. Do đó, căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân huyện G thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

- Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị H và anh H1.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 tự nguyện kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 25/7/2012. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, chị H cho rằng chị và anh H1 bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu thuẫn phát sinh hàng ngày, vợ chồng thường xuyên cự cãi. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh H1 nữa nên cương quyết xin được ly hôn. Về phía anh H1, anh cũng cho rằng giữa anh và chị H bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cự cãi, anh chị đã ly thân từ tháng 5/2021 đến nay. Nay chị H xin ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn với chị H.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị H và anh H1 là có thật và cả hai không tìm cách tháo gỡ được làm cho hôn nhân giữa anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai.

[2.2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 có 2 con chung là: Nguyễn Thị Mỹ C, sinh ngày 23/6/2012; Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 30/5/2014. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi 2 con chung, không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy 2 cháu Nguyễn Thị Mỹ C và Nguyễn Thị Mỹ T hiện đang sống với mẹ và có cuộc sống, học tập, sinh hoạt ổn định. Việc sống chung với mẹ là phù hợp với nguyện vọng của 2 cháu C và T. Đồng thời, phía anh H1 cũng đồng ý giao 2 con cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử chấp nhận để chị Nguyễn Thị Mỹ H là người trực tiếp nuôi 2 cháu Nguyễn Thị Mỹ C và Nguyễn Thị Mỹ T cho đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi. Xét việc chị H không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Áp dụng Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H đối với bị đơn anh Nguyễn Văn H1, cụ thể tuyên:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ H được ly hôn với anh Nguyễn Văn H1.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu Nguyễn Thị Mỹ C, sinh ngày 23/6/2012 và Nguyễn Thị Mỹ T, sinh ngày 30/5/2014 cho đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi. Ghi nhận việc chị H không yêu cầu anh Nguyễn Văn H1 cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, anh H1 được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích về mọi mặt của con chung, khi cần thiết các bên đương sự được quyền yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như quyết định việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0001997 ngày 20/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre. Chị H đã nộp xong tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Nguyễn Văn H1 vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 114/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:114/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về