Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 100/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 100/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 89/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022, về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 86/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Trần Quốc L, sinh năm 1988.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Số 165 phố G, khu 3, thị trấn Gia L, huyện Gia L, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 1988.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 165 phố G, khu 3, thị trấn Gia L, huyện Gia L, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Hàn Q.

(Anh L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; chị Y có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trần Quốc L trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Hải Y được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Gia L, huyện Gia L, tỉnh Hải Dương vào ngày 27/6/2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và không tôn trọng nhau. Năm 2019, khi chị Y đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc, anh không đồng ý nhưng chị vẫn cố tình đi, thời gian đầu chị có liên lạc về gia đình, nhưng sau đó ít liên lạc dần và nếu có liên lạc thì lại xảy ra cãi nhau, sau đó chị Y nói muốn ly hôn nên không liên lạc về nhà nữa, vợ chồng sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay anh xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị Hải Y.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Quốc Gia B, sinh ngày 06/3/2015 và Trần Quốc Bảo A, sinh ngày 10/12/2016, hiện các con đang ở với anh. Ly hôn anh đề nghị được nuôi dưỡng con chung Trần Quốc Gia B và nhất trí giao con Trần Quốc Bảo A cho chị Y chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian chị Y không có mặt tại Việt Nam anh có trách nhiệm nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu chị Y phải có trách nhiệm cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh L không cung cấp được địa chỉ của chị Y nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình chị Y. Bà Nguyễn Thị K - mẹ đẻ chị Y trình bày: Bà không biết địa chỉ cụ thể của chị Y ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên chị Y vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị Y biết. Thông qua gia đình chị Y có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh L có đơn xin ly hôn, chị nhất trí. Chị xác định vợ chồng có hai con chung như anh L trình bày là đúng. Chị nhất trí để anh L nuôi dưỡng con chung Trần Quốc Gia B và chị có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung Trần Quốc Bảo A cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian chị không có mặt tại Việt Nam, chị ủy quyền cho anh L chăm sóc cả hai con, khi nào chị về nước chị sẽ đón con Trần Quốc Bảo A về nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị Y đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

Cháu Trần Quốc Gia B có nguyện vọng được ở với bố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa anh L và chị Y đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Trần Quốc L ly hôn chị Nguyễn Thị Hải Y. Về con chung: Giao con chung Trần Quốc Gia B cho anh L nuôi dưỡng, giao con chung Trần Quốc Bảo A cho chị Y nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Trần Quốc Bảo A cho anh L chăm sóc cho đến khi chị Y về nước. Anh L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Trần Quốc L sinh sống tại Việt Nam, bị đơn chị Nguyễn Thị Hải Y có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại khu 3, thị trấn Gia L, huyện Gia L, tỉnh Hải Dương, hiện chị Y đang lao động tại Hàn Quốc. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh L không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị Y tại Hàn Quốc. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình chị Y cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy, áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bà K - mẹ đẻ chị Y, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh L có quan điểm đề nghị được xét xử vắng mặt, thông qua gia đình chị Y cũng có quan điểm xin được vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh L và chị Y theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Quốc L và chị Nguyễn Thị Hải Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Gia L, huyện Gia L, tỉnh Hải Dương vào ngày 27/6/2014, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng thiếu sự tôn trọng nhau. Năm 2019, chị Y đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay anh L xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Y. Thông qua gia đình chị Y cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm và nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn giữa anh L và chị Y đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh L.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có hai chung là Trần Quốc Gia B, sinh ngày 06/3/2015 và Trần Quốc Bảo A, sinh ngày 10/12/2016, hiện các con đang ở với anh L. Anh L, chị Y thống nhất: anh L nuôi dưỡng con chung Trần Quốc Gia B, chị Y nuôi dưỡng con chung Trần Quốc Bảo A cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Con chung Trần Quốc Gia B có nguyện vọng được ở với anh L. Chị Y ủy quyền cho anh L chăm sóc con chung Trần Quốc Bảo A cho đến khi chị về nước. Hội đồng xét xử thấy, thỏa thuận của anh chị phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật, do vậy cần chấp nhận. Tạm giao con Trần Quốc Bảo A cho anh L nuôi dưỡng trong thời gian chị Y không có mặt tại Việt Nam.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Anh Trần Quốc L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Quốc L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Quốc L ly hôn chị Nguyễn Thị Hải Y.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho anh Trần Quốc L được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Quốc Gia B, sinh ngày 06/3/2015 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Giao cho chị Nguyễn Thị Hải Y được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Quốc Bảo A, sinh ngày 10/12/2016 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Anh L và chị Y không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Trần Quốc Bảo A cho anh L nuôi dưỡng trong thời gian chị Y không có mặt tại Việt Nam.

Anh Trần Quốc L và chị Nguyễn Thị Hải Y được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Trần Quốc L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm anh L đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0000038 ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Anh L đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Quốc L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Nguyễn Thị Hải Y được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 100/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:100/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về