Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 34a/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAKAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 34A/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 13/9/2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 131/2022/TLST -HNGĐ, ngày 25 tháng 3 năm 2022; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 08/8/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25/8/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1993. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Bị đơn: Ông Trịnh Xuân T, sinh năm 1991. (Vắng mặt) Cùng trú tại: Thôn N, xã E, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Trịnh Xuân T sau một thời gian tìm hiểu thì tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 18/7/2019. Trong cuộc sống hôn nhân do ông T không chịu khó làm ăn, có thói quen cờ bạc, không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng để tiếp tục cuộc sống hôn nhân nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được. Đến tháng 3/2021 mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và cả hai đã sống ly than từ đó cho đến nay. Xét thấy cuộc sống vợ chồng không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy tôi đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn ông T.

Về con chung: Chúng tôi có một con chung là Trịnh Quốc C sinh ngày 21/5/2019, tôi có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con chung Trịnh Quốc C đủ 18 tuổi. Tôi không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ: tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Trịnh Xuân T đã được Tòa án nhân dân huyện Ea Kar tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không tham gia giải quyết vụ án. Vì vậy, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn cũng không tiến hành hòa giải được để các đương sự đoàn tụ và thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện EaKar đã ban hành các văn bản tố tụng, triệu tập các đương sự để tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải nhưng bị đơn không tham gia để giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Trần Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Trịnh Xuân T vắng mặt lần thứ hai, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xét xử vắng mặt các đương sự. Bà Trần Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho Bà H được ly hôn với ông Trịnh Xuân T. Bà H có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Trịnh Quốc C sinh ngày 21/5/2019, không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng tiền nuôi con đồng thời sẽ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung và nợ chung không đề nghị tòa án đề cập.

* Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã ban hành các quyết định, cấp tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự đúng quy định. Thành phần Hội đồng xét xử đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật; Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán đã giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự tại phiên tòa. Bị đơn không chấp hành quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56 Điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H. Cho bà Trần Thị H được ly hôn với ông Trịnh Xuân T.

- Về con chung: Giao con chung Trịnh Quốc C sinh ngày 21/5/2019 cho Bà H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng trong quá trình giải quyết vụ án Bà H không yêu cầu nên không xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, Kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị H có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện EaKar giải quyết việc hôn nhân, con chung đối với ông Trịnh Xuân T, đơn khởi kiện của Bà H được Tòa án nhân dân huyện EaKar xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung”, được quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 3939 và Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện EaKar.

Về thủ tục mở phiên tòa vắng mặt các đương sự: Tòa án nhân dân huyện EaKar đã tiến hành tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho các đương sự. Tuy nhiên tại phiên toà hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Bà Trần Thị H và ông Trịnh Xuân T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã EaÔ, huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 18/7/2019 nên là hôn nhân hợp pháp. Theo Bà H xác định trong cuộc sống hôn nhân do ông T không chịu khó làm ăn, có thói quen cờ bạc, không chăm lo cho gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Mặc dù vợ chồng đã cố gắng để tiếp tục cuộc sống hôn nhân nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được. Đến tháng 3/2021 mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và cả hai đã không sống chung với nhau từ đó cho đến nay nên Bà H có nguyện vọng ly hôn với ông T.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương xác định không rõ nguyên nhân mâu thuẫn của Bà H và ông T là gì, không báo chính quyền địa phương nhưng cuộc sống của vợ chồng ông T thường xuyên cải vã và hai người đã sống ly thân hơn 01 năm nay.

Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H, cho bà Trần Thị H được ly hôn với ông Trịnh Xuân T.

Về con chung: Bà H và ông T có một con chung là Trịnh Quốc C sinh ngày 21/5/2019. Bà H có nguyện vọng được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung Trịnh Quốc C đủ 18 tuổi. Hiện nay cháu C cũng đang được Bà H chăm sóc, nuôi dưỡng. Để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh về tâm, sinh lý, cũng như để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu là hoàn toàn phù hợp và thỏa đáng nên căn cứ Điều 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Trịnh Quốc C sinh ngày 21/5/2019 cho Bà H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về trợ cấp nuôi con: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết Về tài sản chung và công nợ: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đề cập.

{3}Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 203, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, và Điều 266 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ khoản 1 Điều 51, Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, 82 và Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H.

* Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H được ly hôn với ông Trịnh Xuân T.

* Về con chung: Giao con chung Trịnh Quốc C sinh ngày 21/5/2019 cho bà Trần Thị H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung Trịnh Quốc C đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Ông Trịnh Xuân T được quyền đi lại thăm nom con chung và không ai được cản trở. Tuy nhiên, ông Trịnh Xuân T không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung. Vì lợi ích của con chung khi cần thiết, các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung.

* Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

* Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm; được khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 60AA/2021/0005965 ngày 25 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.

* Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 34a/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34a/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về