Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con (bất đồng về kinh tế trong gia đình) số 114/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 114/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc  xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 269/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng  4 năm 2022 về  việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2022/QĐXXST-HNG ngày 24 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 73/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Mai Huy H – sinh năm 1986  (vắng mặt) ĐKTT: Ấp 7, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H1 - sinh năm 1990   (vắng mặt) ĐKTT: ấp B, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh  Mai Huy H trình bày:

Anh Mai Huy H và chị Nguyễn Thị H1 tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào năm 2011. Quá trình chung sống vợ chồng không hạnh phúc, do tính tình không hợp, bất đồng về kinh tế trong gia đình. Vợ chồng thường hay cãi vả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay, chị H1 đã về nhà mẹ ruột sinh sống và làm ăn cho đến nay. Trong thời gian ly thân chị H1 bỏ mặc, không thăm nom, chu cấp nuôi con. Nay anh H yêu cầu được ly hôn với chị H1, vì tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn.

Vợ chồng có 01 con chung là cháu Mai Anh H2 – sinh ngày 12/10/2012. Anh H yêu cầu nuôi dưỡng cháu Hải, không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng cho con.

Vợ chồng không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản  chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Nguyễn Thị H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng chị H1 cố tình vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày. Chị H1 cũng không cung cấp chứng cứ hay trình bày ý kiến của mình đối với các vấn đề về con chung, tài sản chung và nợ chung.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn về cơ bản đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn không chấp hành triệu tập của Tòa án là không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh Mai Huy H được ly hôn với chị Nguyễn Thị H1; giao con chung cháu Mai Anh H2 – sinh ngày 12/10/2012 cho anh H nuôi dưỡng; anh H không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng cho con, nên không xem xét giải quyết. Về nợ chung, anh H khai vợ chồng không có nợ chung, nên không xem xét, giải quyết. Về tài sản chung, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết chia, nên không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Mai Huy H và chị Nguyễn Thị H1 tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn vào năm 2011, nên hôn nhân của anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

[2] Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: Anh H cho rằng cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc, do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, kinh tế trong gia đình. Vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Trong thời gian ly thân chị H1 bỏ mặc, không thăm nom, chu cấp nuôi con. Nay anh H xác định không còn tình cảm vợ chồng và không còn muốn tiếp tục chung sống với chị H1, còn chị H1 thì cũng thờ ơ, không còn quan tâm trong tình cảm đối với anh H, vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Do đó, tình trạng hôn nhân giữa anh H và   chị H1 đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nghĩ nên chấp nhận cho anh H được ly hôn với chị H1.

[3] Về con chung: Anh H và chị H1 có 01 con chung cháu Mai Anh H2 – sinh ngày 12/10/2012. Anh H yêu cầu nuôi dưỡng cháu H2, không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng cho con. Xét trong thời gian ly thân, con chung do anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị H1 không quan tâm, thăm nom, chu cấp cho con. Do vậy, chấp nhận giao cháu H2 cho anh H nuôi dưỡng. Anh H không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng cho con, nên không giải quyết.

[4] Về nợ chung: Anh H khai vợ chồng không có nợ chung, còn chị H1 thì không có lời trình bày về nợ chung, nên không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Các đương sự được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, còn chị H1 thì không có lời trình bày về tài sản chung, nên không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Các đương sự được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Anh H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm  2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa  14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ  phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận cho anh Mai Huy H được ly hôn với chị Nguyễn Thị H1.

2. Về con chung: Giao cháu Mai Anh H2 – sinh ngày 12/10/2012 cho anh Mai Huy H trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Anh Mai Huy H không yêu cầu chị Nguyễn Thị H1 cấp dưỡng cho con, nên không xem xét giải quyết.

Chị Nguyễn Thị H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai  được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết anh Mai Huy H và chị Nguyễn Thị H1 được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như yêu cầu về việc cấp dưỡng cho con.

3. Về tài sản chung: Anh Mai Huy H không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, còn chị Nguyễn Thị H1 thì không có lời trình bày về tài sản chung, nên không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Các đương sự được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

4. Về nợ chung: Anh Mai Huy H khai vợ chồng không có nợ chung, còn chị Nguyễn Thị H1 thì không có lời trình bày về nợ chung, nên không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Các đương sự được quyền yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

5. Về án phí: Anh Mai Huy H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) anh Mai Huy H nộp theo biên lai thu số 0006363 ngày 05/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được tính trừ vào án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con (bất đồng về kinh tế trong gia đình) số 114/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:114/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về