Bản án về ly hôn số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM – TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 43/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022, về tranh chấp “tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐXX-ST ngày 02 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lương Hồng T – sinh năm: 1988 (xin vắng mặt). Địa chỉ: ấp Q, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn: anh Ngô Minh T – sinh năm: 1984 (xin vắng mặt). Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Taïi đơn khởi kiện ñeà ngày 14/02/2022, nguyên đơn chị Lương Hồng T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Ngô Minh T chung sống với nhau vào năm 2013, hôn nhân tự nguyện, do quen biết, được cha mẹ hai bên thừa nhận, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào ngày 27/3/2013.

Sau ngày cưới, chị và anh T sống chung với cha mẹ ruột của anh T tại ấp T, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn dẫn đến vợ chồng cự cãi nhau, bất đồng quan điểm sống. Chị và anh T không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng được. Chị và anh T ly thân từ đầu năm 2019 cho đến nay.

Nay nhận thấy tình cảm không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài nên chị Thúy yêu cầu ly hôn với anh Ngô Minh T.

- Về con chung: Có một con chung tên Ngô Thiên K- sinh ngày 22/01/2016, hiện đang sống cùng chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ngô Thiên K và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài saûn chung và nợ chung phải thu, phải trả của vợ chồng: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản khai ý kiến đề ngày 01/3/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Ngô Minh T trình bày:

Anh T thống nhất với trình bày của chị Lương Hồng T về thời gian vợ chồng chung sống có đăng ký kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, thời gian vợ chồng ly thân.

Tuy nhiên, chị T yêu cầu ly hôn với anh T thì anh không đồng ý vì anh T còn thương vợ con không muốn vợ chồng phải xa cách.

- Về con chung: có một con chung tên Ngô Thiên K – sinh ngày 22/01/2016. Khi ly hôn, anh T đồng ý giao cháu Ngô Thiên K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và anh T không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ được thể hiện tại hồ sơ được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long giải quyết việc hôn nhân giữa chị và anh Ngô Minh T. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Xét thấy, chị Lương Hồng T và anh Ngô Minh T có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị T, anh T theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh T tự nguyện chung sống với nhau do quen biết, được cha mẹ hai bên thừa nhận, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào ngày 27/3/2013 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét thấy, chị T trình bày vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn dẫn đến vợ chồng cự cãi nhau, bất đồng quan điểm sống. Chị và anh T không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Chị và anh T ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng phải có nghĩa vụ chung sống với nhau, yêu thương, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng chia sẻ và thực hiện các công việc của gia đình. Thực tế, giữa chị T và anh T không còn quan tâm chăm sóc nhau, không thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng.

Qua đó cho thấy, hôn nhân giữa chị T và anh T lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T không đồng ý ly hôn với chị T nguyên nhân là còn thương vợ con. Tuy nhiên anh không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ hôn nhân giữ anh và chị T vẫn còn hàn gắn được nên yêu cầu của anh không có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung: có một con chung tên Ngô Thiên K – sinh ngày 22/01/2016. Khi ly hôn, chị T yêu cầu trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ngô Thiên K.

Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Ngô Thiên K đang sống cùng chị T, cuộc sống của cháu ổn định, sức khỏe bình thường, điều kiện sống của chị T đảm bảo thuận tiện cho việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con. Anh T đồng ý giao cháu Ngô Thiên K cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, khi ly hôn giao cháu Ngô Thiên K cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình.

Chị Thúy không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu Ngô Thiên K nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả của vợ chồng: Chị T và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị T phải nộp án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 9, 51, 53; 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lương Hồng T.

Về hôn nhân: Cho chị Lương Hồng T được ly hôn với anh Ngô Minh T.

Về con chung: Giao cháu Ngô Thiên K – sinh ngày 22/01/2016 cho chị Lương Hồng T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Ngô Minh T không trực tiếp nuôi con, không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về tài sản chung và nợ chung phải thu, phải trả: Chị Lương Hồng T và anh Ngô Minh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lương Hồng T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số N00008021 ngày 15/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vũng Liêm. Chị Lương Hồng T đã nộp đủ không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về