Bản án về ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 32/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 472/2021/TLST-HNGĐ ngày 01/11/2021 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/02/2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 23/2022/QĐST-HNGĐ ngày 17/3/2022 giữa:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thuỳ V

Nơi cư trú: Tổ dân phố 1, phường H, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn L

Nơi cư trú: Thôn T, xã X, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thuỳ V trình bày: Bà và ông Nguyễn Tấn L đăng ký kết hôn năm 2018 tại Uỷ ban nhân dân phường H, thị xã NH, được Ủy ban cấp giấy chứng nhận kết hôn số 24 ngày 14/3/2018. Sau khi kết hôn, ông bà sống chung với nhau được 1 năm. Đến ngày 01/5/2019, ông L dọn ra ngoài ở riêng và không về nhà nữa. Sau nhiều năm cố gắng hàn gắn nhưng không được, đến nay tình cảm không còn nên bà V đề nghị Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông L.

- Về con chung: Bà và ông L có 01 con chung là N. Sau khi ly hôn, bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án nhân dân thị xã Ninh Hoà sau khi thụ lý vụ án đã triệu tập các đương sự đến tại trụ sở Toà án để lấy lời khai, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng chỉ có mặt nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thuỳ V còn bị đơn ông Nguyễn Tấn L vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng. Vì vậy, Toà án không thể lấy ý kiến cũng như tiến hành hoà giải cho các đương sự theo thủ tục được.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Thuỳ V và cho bà V được ly hôn với ông L.

+ Về con chung: Bà V và ông L có một con chung là cháu N. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con cho bà V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, bà V không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung: Bà V không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

+ Về án phí: Bà V phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là tranh chấp về quan hệ hôn nhân gia đình về ly hôn, con chung vì vậy theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm.

- Bị đơn có nơi cư trú tại xã X, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã NH theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thuỳ V có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Nguyễn Tấn L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thuỳ V và ông Nguyễn Tấn L tự nguyện kết hôn và được Uỷ ban nhân dân phường H, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 24, cấp ngày 14/3/2018 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng ông bà ban đầu có hạnh phúc nhưng đến nay đã không còn tiếng nói chung, không quan tâm, chăm sóc nhau, không thực hiện quyền, nghĩa vụ vợ chồng và không sống chung từ năm 2019 đến nay. Trong quá trình tiến hành tố tụng, Toà án đã tiến hành các thủ tục niêm yết, tống đạt các văn bản tố tụng của Toà cho bị đơn, tuy nhiên ông L vẫn không có bất kỳ ý kiến gì về việc bà V nộp đơn ly hôn. Do đó có căn cứ cho rằng ông L đã không còn quan tâm đến mối quan hệ vợ chồng với bà V. Vì thế có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Thuỳ V và ông Nguyễn Tấn L đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được do các đương sự đã vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, việc Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

2.2. Về con chung: Bà V và ông L có 01 con chung là cháu N. Sau khi ly hôn, bà V có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu N và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu N còn nhỏ và đang được bà V trực tiếp nuôi dưỡng, căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử xét thấy giao con N cho bà V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là hợp lý.

Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

2.3. Về tài sản chung: Bà V không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Bà V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

[5] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147; Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thuỳ V.

- Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thuỳ V được ly hôn ông Nguyễn Tấn L.

- Về con chung: Giao cháu N cho bà Nguyễn Thị Thuỳ V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà V không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Bà V không yêu cầu nên không xem xét.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thuỳ V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0004103 ngày 28/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã NH. Bà Nguyễn Thị Thuỳ V đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 32/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về