Bản án về ly hôn số 13/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ T công khai vụ án thụ lý số 185/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 124/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị D, sinh năm 1988 Địa chỉ: Số 51/11, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A

Bị đơn: Anh T, sinh năm 1984 Địa chỉ: Ấp P, thị trấn C, huyện P, tỉnh A (Chị D có mặt, anh Th vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị D trình bày:

- Quan hệ hôn nhân:

Chị và anh T tự tìm hiểu, tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ Thạnh, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang vào năm 2009. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2021 phát sinh mâu thuẫn do anh T ghen tuông vô cớ, vợ chồng thường xuyên cự cãi anh T dùng những lời lẽ thô tục xúc phạm danh dự chị, nhiều lần vợ chồng hòa giải nhưng không thành, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, kéo dài đến tháng 12/2020 âm lịch anh T bỏ đi và vợ chồng ly thân cho đến nay. Chị không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị D và anh T có 01 con chung tên CT sinh ngày 01/8/2012, hiện nay đang sống với chị D. Chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không Về nợ: Không Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tòa án tiến hành xác minh được chị Phan Thị Ánh H là trưởng ấp P, thị trấn C cho biết: Anh T đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Phú Hiệp, thị trấn Chợ Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Trước tháng 12/2020 anh T sống tại thành phố L với chị D, từ sau tháng 12/2020 đến nay sống tại ấp Phú Hiệp, thị trấn Chợ Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Hiện nay anh T đi làm trong công ty ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Thời điểm thường xuyên có mặt ở nhà vào chiều, tối và ngày nghỉ, thứ bảy, chủ nhật.

Về tình trạng hôn nhân của anh T, được biết vợ chồng không còn chung sống với nhau từ tháng 12/2020 âm lịch do chị D thường xuyên tụ tập bạn bè uống rượu từ đó vợ chồng mâu thuẫn và ly thân.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

Về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Thành phần Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đúng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật của nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Phan Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tham dự phiên tòa, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Qua đó, cho thấy bị đơn đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Quan điểm giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Chị D và anh T có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T ghen tuông, vợ chồng thường xuyên cự cãi. Vợ chồng ly thân từ tháng 12/2020 âm lịch đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, nên chị D yêu cầu xin ly hôn với anh T.

Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau… Vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau…”. Thế nhưng vợ chồng chị D và anh T đã không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc cho nhau, anh T không còn tin tưởng chị, vợ chồng không còn chung sống với nhau từ tháng 12/2020 âm lịch cho đến nay, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nguyên đơn chị D xin ly hôn với anh T là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị D và anh T có 01 con chung tên CT sinh ngày 01/8/2012, hiện nay đang sống với chị D. Chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu T đang sống với chị D, được chị và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển ổn định. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, cần tiếp tục giao cháu T cho chị D tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, phù hợp với nguyện vọng của cháu T. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên không xem xét, giải quyết. Về nợ chung: Không có, nên không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị D phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án, được kiểm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về T quyền giải quyết: Anh T với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại ấp Phú Hiệp, thị trấn Chợ Vàm, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc T quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Bị đơn anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung: Xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị D và anh T tiến tới hôn nhân năm 2009 trên cơ sở tự nguyên, tự tìm hiểu và đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Chung sống đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn do anh T ghen tuông nên vợ chồng cự cãi, anh T đánh chị D. Anh chị ly thân từ tháng 12/2020 âm lịch đến nay. Xét thấy, thời gian ly thân của anh chị kéo dài, vợ chồng không thực hiện nghĩa vụ thương yêu, chung sống với nhau. Anh T không tin tưởng chị D, có hành vi bạo lực gia đình. Nhiều lần Tòa án triệu tập nhưng anh T không tham dự, cho thấy anh không có thiện chí hàn gắn. Hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Nên yêu cầu ly hôn của chị D là phù hợp. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận chị Phan Thị Mỹ D được ly hôn với anh Phan Văn T.

[3] Về con chung: Chị D và anh T có 01 con chung tên CT sinh ngày 01/8/2012. Xét thấy từ khi ly thân đến nay cháu Tường sống chung chị D, được chị và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển ổn định. Ngoài ra, cháu CT có nguyện vọng được sống với mẹ. Để đảm bảo môi trường phát triển của các con được ổn định, thuận lợi trong việc học tập, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, cần tiếp tục giao cháu Tường cho chị D chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị D không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, chị D cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về chia tài sản: Không [5] Về nợ chung: Ghi nhận chị D xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[6] Về án phí sơ T, căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị Phan Thị Mỹ D phải chịu án phí hôn nhân sơ T.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về hôn nhân: Chị Phan Thị Mỹ D được ly hôn với anh Phan Văn T.

2. Về con chung: Chị Phan Thị Mỹ D tiếp tục nuôi con chung tên CT sinh ngày 01/8/2012, hiện nay cháu CT đang sống với chị D. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, chị D cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con 3. Về tài sản chung: Không 4. Về nợ chung: Ghi nhận chị D xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

5. Về án phí hôn nhân sơ T: Chị Phan Thị Mỹ D phải chịu 300.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0002484 ngày 20/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân. Anh T không phải chịu án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 13/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về