Bản án về ly hôn số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 170/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 125/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị T, sinh năm 1995 Địa chỉ: Tổ 7, ấp T, xã T, thành phố C, tỉnh Đ

Bị đơn: Anh K, sinh năm 1983 Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện P, tỉnh A (Chị T có mặt, anh K vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị T trình bày:

- Quan hệ hôn nhân:

Chị và anh K được mai mối, anh chị đồng ý tiến tới hôn nhân vào năm 2014. Sau khi cưới vợ chồng sống chung với cha mẹ chị. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc. Năm 2015 phát sinh mâu thuẫn vợ chồng cự cãi nhiều vấn đề. Nguyên nhân, anh chị không tìm hiểu nhau trước, độ tuổi lại chênh lệch nhiều (anh K lớn hơn chị 11 tuổi), nên tính tình không hòa hợp được, anh K hay ghen nên vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm. Đầu năm 2018 chị đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh, anh K và con ở lại nhà. Chị vẫn thường xuyên về thăm con, mỗi lần về vợ chồng lại cự cãi. Vợ chồng ly thân từ năm 2018 đến nay. Chị không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn với anh K.

Về con chung: Chị T và anh K có 01 con chung tên Tr sinh ngày 12/02/2015, hiện nay đang sống với anh K, đang học tại thị trấn C, huyện P. Chị yêu cầu tiếp tục giao con cho anh K nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không Về nợ: Không Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không rõ lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tòa án tiến hành xác minh được bà L cho biết: Bà L là mẹ ruột của anh K. Hiện nay anh K và cháu Tr đang chung sống cùng bà tại ấp P, xã P, huyện P, tỉnh A. Hàng ngày anh K đi làm hồ, thời gian về nhà khoảng chiều tối.

Về tình trạng hôn nhân của anh K và chị T mâu thuẫn từ đầu năm 2021, do T có mối quan hệ tình cảm với người khác, K đưa con về sống với bà. Bà cho rằng không cần hàn gắn cho anh K và chị T. Bà nghe người khác nói chị T đã có chồng khác và cũng đã có con.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

Về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Thành phần Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đúng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định phân công thẩm phán giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật của nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Trịnh Hồng Kha đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến tham dự phiên tòa, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Qua đó, cho thấy bị đơn đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Quan điểm giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Chị T và anh K có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị T và anh K không tìm hiểu nhau trước khi kết hôn, độ tuổi lại chênh lệch từ đó vợ chồng có nhiều bất đồng trong cuộc sống, anh K lại ghen tuông nên vợ chồng thường xuyên cự cãi. Vợ chồng ly thân từ năm 2018 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, nên chị Trúc yêu cầu xin ly hôn với anh K.

Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau… Vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau…”. Thế nhưng vợ chồng chị T và anh K đã không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc cho nhau, anh Kha không còn tin tưởng chị, vợ chồng không còn chung sống với nhau từ năm 2018 cho đến nay, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nguyên đơn chị T xin ly hôn với anh K là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị T và anh K có 01 con chung tên Tr sinh ngày 12/02/2015, hiện nay đang sống với anh K. Chị T yêu cầu tiếp tục giao cháu Tr cho anh K nuôi dưỡngg, chị không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu T đang sống với anh K, được anh và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển ổn định. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, cần tiếp tục giao cháu Tr cho anh K tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên không xem xét, giải quyết. Về nợ chung: Không có, nên không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị Trúc phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án, được kiểm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Trúc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Kha nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Anh K với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại ấp P, xã P, huyện P, tỉnh A nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh A.

Bị đơn anh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do, không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung: Xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chị T và anh K tiến tới hôn nhân năm 2014 trên cơ sở mai mối và có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Chung sống đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do chị T và anh K bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, anh K hay ghen tuông. Anh chị ly thân từ năm 2018 đến nay. Xét thấy, thời gian ly thân của anh chị kéo dài, vợ chồng không thực hiện nghĩa vụ thương yêu, chung sống với nhau. Anh K không tin tưởng chị T, vợ chồng bất đồng ý kiến. Nhiều lần Tòa án triệu tập nhưng anh Kha không tham dự, cho thấy anh không có thiện chí hàn gắn. Hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Nên yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận chị Tđược ly hôn với anh K.

[3] Về con chung: Chị T và anh K có 01 con chung tên Tr sinh ngày 12/02/2015. Xét thấy từ khi ly thân đến nay cháu Tr sống chung anh K, được anh và gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, phát triển ổn định. Để đảm bảo môi trường phát triển của các con được ổn định, thuận lợi trong việc học tập, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, cần tiếp tục giao cháu Tr cho anh K chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, anh K cùng các thành viên gia đình không được cản trở chị T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về chia tài sản: Không

[5] Về nợ chung: Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[6] Về án phí sơ thẩm, căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56 và khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về hôn nhân: Chị T được ly hôn với anh K.

2. Về con chung: Anh K tiếp tục nuôi con chung tên Tr sinh ngày 12/02/2015, hiện nay cháu Tr đang sống với anh K. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, anh K cùng các thành viên gia đình không được cản trở chị Ttrong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con 3. Về tài sản chung: Không

4. Về nợ chung: Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0002471 ngày 15/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P. Anh K không phải chịu án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về