Bản án về ly hôn số 113/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 113/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 07 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 316/2021/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2021/QĐST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1999; Địa chỉ: huyện ĐH, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)

Bị đơn: Huỳnh Văn P, sinh năm 1981; Địa chỉ: huyện Đ, tỉnh Long An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 29 tháng 3 năm 2021, nguyên đơn bà H trình bày: Bà và ông P chung sống với nhau năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ANĐ, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 18/5/2017. Năm 2018, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, không hợp nhau. Cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc. Chúng tôi ly thân từ năm 2018 cho đến nay, tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông P.

Về con chung: Bà và ông P có con chung tên Nguyễn Khánh Ph, sinh ngày 29/10/2017. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi con chung, yêu cầu ông P cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Bà H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông P, hiện đang sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông P đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng ông P vẫn vắng mặt. Bà H có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà H, ông P chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã ANĐ, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 18/5/2017 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà H cho rằng năm 2018, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, không hợp nhau. Cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc. Vợ chồng ly thân từ năm 2018 cho đến nay, tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, khó mong hàn gắn nên bà H xin ly hôn với ông P. Đối với ông P, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của bà H nhưng ông P không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà H. Tại phiên tòa hôm nay, ông P vẫn vắng mặt, chứng tỏ ông không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông P là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà H và ông P có con chung tên Nguyễn Khánh Ph, sinh ngày 29/10/2017. Khi ly hôn, bà H yêu cầu nuôi con chung, yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Đối với ông P, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của bà H về con chung nhưng ông P không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà H. Xét thấy, để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Ph nên buộc ông P có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Khánh Ph cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Ông P không có văn bản phản hồi ý kiến. Xét thấy, cha mẹ không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, do đó bà H yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 82, Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Về tài sản chung: Bà H trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông P không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về nợ chung: Bà H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông P không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Bà H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ông P phải chịu án phí cấp dưỡng theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5, Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5, Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc H đối với ông Huỳnh Văn P về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc H được ly hôn với ông Huỳnh Văn P.

2. Về con chung: Buộc ông P có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Khánh Ph, sinh ngày 29/10/2017 cho bà H nuôi dưỡng; Buộc ông P phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng); Thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 5 năm 2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên có nghĩa vụ chậm thi hành sẽ phải chịu thêm khoản tiền lãi tính trên số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Buộc ông P phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng sung ngân sách nhà nước. Bà H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007790 ngày 29/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An để thi hành. Bà H đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 113/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:113/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về