TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 88/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 394/2021/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/9/2021 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị Triệu Thị Q, sinh năm 1988; hộ khẩu thường trú: Thôn D, thị trấn Q, huyện Q, Thành phố Hà Nội; nơi ở: C45, đường A, Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, (có mặt)
- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu N, sinh năm 1990; hộ khẩu thường trú: 11/12 đường B, phường P, thành phố H, tỉnh Hải Dương; nơi ở: C45, đường A, Phường D, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/7/2021 được chuyển đến Tòa án ngày 06/7/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Triệu Thị Q trình bày: Chị Q và anh Nguyễn Hữu N kết hôn vào năm 2016 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố H, tỉnh Hải Dương, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Quá trình chung sống vợ chồng không hòa thuận, hạnh phúc thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn được gắn bó, không khí trong gia đình luôn trong tình trạng căng thẳng, mâu thuẫn giữa chị và anh N đã được gia đình hai bên hòa giải, chị và anh N cũng đã nhiều lần ngồi lại tìm cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng chỉ được một thời gian thì lại phát sinh mâu thuẫn. Hiện chị và anh N đã sống ly thân, nay chị xác định vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, tình cảm không còn nên chị Q yêu cầu được ly hôn với anh N.
Về con chung: Chị Q xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Hạ L, sinh ngày 21/02/2019. Ly hôn chị Q yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Q xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo bản tự khai ngày 12/7/2021 và đơn xin vắng mặt ngày 20/9/2021 của bị đơn anh Nguyễn Hữu N thì: Anh N thống nhất về thời điểm kết hôn, nơi đăng ký kết hôn và việc tự nguyện kết hôn giữa anh và chị Q như chị Q trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại thành phố Hồ Chí Minh đến đầu năm 2021 thì chuyển về thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng sống cho đến nay, cuộc sống vợ chồng không hòa thuận, hạnh phúc và phát sinh mâu thuẫn ngay từ khi mới kết hôn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Hiện vợ chồng đã sống ly thân, nay chị Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh N cũng đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh N xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Hạ L, sinh ngày 21/02/2019. Ly hôn anh N đồng ý để chị Q trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung và nợ chung: Anh N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án đã mở phiên hoà giải tuy nhiên anh N có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được.
Tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn chị Q xác định xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với với anh N và yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh N có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Triệu Thị Q và anh Nguyễn Hữu N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân phường P, thành phố H, tỉnh Hải Dương cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Vợ chồng chung sống không hoà thuận, hạnh phúc mà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống và tại phiên toà chị Q xác định một phần là do anh N có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên tình cảm vợ chồng mất dần, mặc dù đã được gia đình khuyên giải nhưng cả hai không khắc phục được mâu thuẫn nên vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm trách nhiệm gì với nhau. Nên chị Q yêu cầu ly hôn với anh N. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Q và anh N là có xảy ra, kéo dài và đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh N cũng xác định vợ chồng không thể khắc phục mâu thuẫn, không còn khả năng hàn gắn nên cũng đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, do anh N vắng mặt tại phiên toà nên Toà án căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, xử chấp nhận yêu cầu của chị Q, cho chị Q và anh N ly hôn.
[3] Về con chung: vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hạ L, sinh ngày 21/02/2019. Ly hôn, chị Q có yêu cầu được nuôi con. Anh N đồng ý giao con cho chị Q nuôi dưỡng, tuy nhiên do anh N vắng mặt nên căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Q xác định đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu anh Tuấn cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Q và anh N xác định không có nên không đề cập xem xét.
[6] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 điều 28, Điều 147 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Triệu Thị Q. Cho chị Triệu Thị Q và anh Nguyễn Hữu N ly hôn.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Hạ L, sinh ngày 21/02/2019 cho Triệu Thị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên.
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về án phí: Chị Triệu Thị Q phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Q đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0004018 ngày 07 tháng 7 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng).
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án
Bản án về ly hôn số 88/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 88/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về