Bản án về ly hôn số 112/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 112/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2021 VÊ LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1275/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2021/QĐST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1988; Địa chỉ: huyện Đ, tỉnh Long An. (xin vắng mặt)

Bị đơn: Võ Cao Thị Trâm A, sinh năm 1997; Địa chỉ: huyện Đ, tỉnh Long An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 18 tháng 11 năm 2020, nguyên đơn ông V trình bày: Ông và bà A có tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TB, huyện CL, tỉnh Tiền Giang ngày 21/7/2017. Thời gian đầu hôn nhân hạnh phúc nhưng thời gian gần đây, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không cùng quan điểm sống. Vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn. Bà A đã có cuộc sống gia đình khác nên ông xin ly hôn với bà A.

Về con chung: Ông và bà A có con chung tên Nguyễn Hoàng Diệp L, sinh ngày 02/11/2017. Khi ly hôn, ông yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu bà A cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Ông V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà A, hiện đang sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn ông V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn bà A đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng bà A vẫn vắng mặt. Ông V có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà A, ông V chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã TB, huyện CL, tỉnh Tiền Giang ngày 21/7/2017 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, ông V cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do không cùng quan điểm sống. Vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn. Bà A đã có cuộc sống gia đình khác nên ông V xin ly hôn với bà A. Đối với bà A, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của ông V nhưng bà A không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của ông V. Tại phiên tòa hôm nay, bà A vẫn vắng mặt, chứng tỏ bà A không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu xin ly hôn của ông V đối với bà A là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà A và ông V có con chung tên Nguyễn Hoàng Diệp L, sinh ngày 02/11/2017. Khi ly hôn, ông yêu cầu nuôi con chung, không yêu cầu bà A cấp dưỡng. Đối với bà A, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của ông V về con chung nhưng bà A không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của ông V. Xét thấy để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu L nên buộc bà A có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Hoàng Diệp L cho ông V nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông V không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Ông V trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà A không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Ông V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng V đối với bà Võ Cao Thị Trâm A về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hoàng V được ly hôn với bà Võ Cao Thị Trâm A.

2. Về con chung: Buộc bà A có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Hoàng Diệp L, sinh ngày 02/11/2017 cho ông V nuôi dưỡng. Bà A không phải cấp dưỡng nuôi con, do ông V không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Ông V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0006918 ngày 23/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An để thi hành. Ông V đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 112/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:112/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về